Sunday, November 6, 2011

Hai nhà thơ cộng sản: XUÂN DIỆU & Tế Hanh

XUÂN DIỆU, TRONG NHỮNG NĂM 1954-58
Lại Nguyên Ân
 
0. Thời gian gần đây trên báo chí đôi lúc xuất hiện những bài viết về cuộc đời các nhà văn nhà thơ nổi tiếng với những thông tin có vẻ lần đầu được đưa ra với công chúng; tác giả những thông tin ấy thường bảo rằng đây là chuyện của chính tôi, hoặc chuyện của danh nhân người nhà tôi, nghĩa là rất đáng tin cậy! Thế nhưng nghĩ kỹ lại, người ta vẫn thấy những bất ổn kèm theo các thông tin ấy. Vậy làm sao có thể biết được rằng các thông tin về quá khứ kia là đúng hay là sai?

Theo lẽ thường, để có thể tin cậy được, ngay các "chuyện thật ngày xưa" do chính người trong cuộc kể lại cũng cần được kiểm chứng. Vì sao ư? Vì sự kiện của quá khứ được kể lại chậm dăm bảy năm, thậm chí vài chục năm, là loại sự kiện mà trí nhớ con người vừa khôi phục nó vừa làm méo nó. Trí nhớ không giống như chiếc thẻ ghi hình hay ghi tiếng ta biết hiện giờ. Cơ chế của trí nhớ thường là vừa giữ lại vừa làm khúc xạ cái mà nó lưu giữ; và mỗi khi cần tái công bố một dữ liệu của quá khứ, trí nhớ người ta sẽ diễn đạt theo cách vừa phục hoạt nó lại vừa hư cấu nó. Tóm lại, cái dữ kiện quá khứ mà người ta được biết qua những "hồi ức kể muộn" là khá ít đáng tin cậy; muốn tin được tình tiết nào cần phải kiểm tra tình tiết ấy. Kiểm tra bằng cách nào? Bằng đối chiếu với tư liệu nguồn (là tư liệu đương thời của những "ngày xưa" ấy) hoặc với các tư liệu thứ sinh (ví dụ hồi ức của những người cùng thời khác).
Để cụ thể hoá những điều nói trên, xin đi vào một vài trường hợp, tốt nhất là chọn được những trường hợp có liên quan đến một vài nhân vật mà nhiều người nghe biết. Xin nói đến nhà thơ Xuân Diệu (1916-85).
Vừa năm ngoái, người tự thông báo là "thừa kế duy nhất của nhà thơ Xuân Diệu", ông Cù Huy Hà Vũ, trong bài Có một Xuân Diệu nhà báo (www.tintuconline.com.vn/vn/vanhoa 12/8/2007), bên cạnh những tài liệu mà chỉ "người trong nhà" (thân nhân) mới có thể có để công bố, như một số bức ảnh quý hiếm chụp bộ đôi Huy-Xuân cùng Xuân Như em gái Xuân Diệu (cũng có thể gọi đó là ảnh vợ chồng Huy Cận-Xuân Như chụp cùng ông anh vợ là Xuân Diệu), ảnh Xuân Diệu chụp cùng mấy thành viên Tự Lực văn đoàn, ảnh tấm thẻ nhà báo của Xuân Diệu với tư cách phóng viên tờ "Tiên phong" (chữ TIÊN không có dấu huyền) của Hội Văn hoá Cứu quốc năm 1945, v.v… Vâng, các tư liệu ấy rất quý; nhưng bên cạnh đó trong bài lại có những thông tin rất … khó tin, chẳng hạn:
  − …"lúc đó (?) với tư cách là thư ký của báo Văn, tiền thân của báo Văn nghệ, Xuân Diệu đã cho đăng các tác phẩm của Phan Khôi, Thụy An" ….  kết quả là Xuân Diệu bị "cách" khỏi ban phụ trách tờ Văn bằng cách được cử làm trưởng đoàn nhà văn đi thăm nước bạn Hungary;
 − … năm 1970, Xuân Diệu được cử phụ trách tờ Tác phẩm mới của Hội nhà văn, đã bị phê bình vì cho đăng bài tuỳ bút "Phở" của Nguyễn Tuân"; v.v…
Lại vừa đây trên báo Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 162 (tháng 7/2008) cũng Cù Huy Hà Vũ với bài Có một Xuân Diệu – nhà báo cách mạng (tr. 45-47), tương tự bài trên báo điện tử tintuconline kể trên (chỉ bỏ qua phần Xuân Diệu làm báo trước 1945), tuy đã không còn giữ lại chi tiết cho rằng Xuân Diệu là người cho đăng tuỳ bút Phở của Nguyễn Tuân, nhưng tác giả bài báo lại đưa ra như khẳng định một sự kiện: cho rằng khi phụ trách tờ Tác phẩm mới, Xuân Diệu "lại bị chỉ trích vì cho đăng những bài không thật "lập trường" cho lắm", và để cách chức ông, đưa ông về quy chế "viết văn chuyên nghiệp", người ta đã "tạm ngừng xuất bản" tạp chí Tác phẩm mới từ số tháng 2/1976, mãi đến tận tháng 1/1987, tức 2 năm sau khi Xuân Diệu mất (18/12/1985) mới tục bản dưới tên gọi Tác phẩm văn học (về sau đổi lại là Tác phẩm mới và nay là tạp chí Nhà văn)!
Về mấy thông tin này, những ai bây giờ đang ở trạc 60 tuổi hẳn đều thấy việc cho rằng "báo Văn là tiền thân của báo Văn nghệ " − đã là chuyện sai lầm quá rõ.
 
Tuần báo Văn chỉ mới ra số đầu vào ngày 20/5/1957, với tư cách cơ quan của Hội Nhà văn khi đó vừa được thành lập; làm sao có thể là tiền thân của tờ Văn nghệ, cơ quan của Hội Văn nghệ Việt Nam, vốn ra mắt từ năm 1948 ở Việt Bắc? 
Bài tuỳ bút nhan đề Phở của Nguyễn Tuân được đăng lần đầu ngay ở số 1 và số 2 của tuần báo Văn, đâu cần đợi chờ hơn 10 năm sau nữa mới được Xuân Diệu cho đăng lênTác phẩm mới để "bị phê bình"?
Và tiếp theo, người ta có thể ngờ vực các chi tiết "hồi ức" (2007-8) khác nữa của Cù Huy Hà Vũ, như chuyện liệu có phải Xuân Diệu đã là người đưa đăng tác phẩm của Phan Khôi, Thụy An (hồi nào? 1956 chăng?)… Còn việc Hội Nhà Văn VN vào năm 1976, ngừng Tác phẩm mới  dưới dạng tạp chí để chuyển đổi nó thành nhà xuất bản, lại được Cù Huy Hà Vũ giải thích như chỉ là nhằm cách chức tổng biên tập của Xuân Diệu, thì quả là một hư cấu quá quy mô! Quá quy mô ở chỗ nó bao trùm cả 2 sự việc: việc ngừng Tác phẩm mới dạng tạp chí để chuyển thành nhà xuất bản vào năm 1976 vốn được nhiều người biết tới như cách "qua mặt" ông Như Phong - chủ NXB Văn học lúc đó đang tỏ ra "xấu chơi" không chịu in sách cho mấy nhà văn vai vế; còn việc lập ra tạp chí Tác phẩm văn học vào năm 1987 vốn được nhiều người biết tới như cách mà Nguyễn Đình Thi tạo ra phương tiện(a) để đối phó với tuần báo Văn nghệ lúc ấy đang nằm trong tay Nguyên Ngọc. Hãy thử hỏi những người đã cao tuổi mà đến lúc này (tháng 8/2008) còn khoẻ mạnh tỉnh táo như Tô Hoài, Vũ Tú Nam, Nguyễn Quang Sáng, v.v… và cả Nguyên Ngọc nữa, xem sự thể những chuyện đó ra sao?   
Tất nhiên, chạy theo để "đính chính" các chi tiết lẻ tẻ như nêu trên,(b) có thể sẽ mãi mãi làm không hết những việc… vặt! Tôi nghĩ có một cách làm khả thủ hơn, là hãy để công tìm hiểu xem, trong một đoạn thời gian nhất định, Xuân Diệu như một tác gia, một nhà hoạt động trong giới văn nghệ, đã làm những gì. Tài liệu để tìm hiểu có thể là cả những hồi ức sớm hoặc muộn khác nhau của những người cùng thời hoặc hậu thế có liên quan, nhưng không thể bỏ qua nguồn tài liệu là sách báo xuất bản trong chính thời gian ấy, − một loại bằng chứng có từ đương thời mà nay vẫn còn lại đó, ít khả năng phản phúc hơn bất cứ loại nhân chứng nào khác. Nói đúng ra, cách làm này là một hướng rất nên theo, khi người làm nghiên cứu văn học tiếp cận một tác gia cụ thể, hoặc người làm nghiên cứu sử học tiếp cận một nhân vật lịch sử cụ thể.
Theo cách này, tôi sẽ thực hiện một ví dụ là tìm hiểu hoạt động của Xuân Diệu trong những năm 1954-58.
***
1. Xuân Diệu làm việc trong toà soạn tạp chí Văn nghệ của Hội Văn nghệ Việt Nam ở Việt Bắc từ 1948, bên cạnh những thành viên khác của toà soạn là Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Nguyễn Tuân. Ở số tạp chí Văn nghệ sau cùng trước khi các văn nghệ sĩ cùng hầu hết các lực lượng kháng chiến cấp trung ương đóng ở Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội, tức là ở tạp chí Văn nghệ số 56 (tháng 10/1954), Xuân Diệu đứng tên dưới bức thư (1) gửi giới nhà văn nhà thơ đang sống trong Hà Nội từ thời tạm chiếm, bên cạnh thư đứng tên Trần Văn Cẩn gửi các hoạ sĩ, thư đứng tên Nguyễn Cao Luyện gửi giới kiến trúc sư.
Trở về Hà Nội, tạp chí Văn nghệ đổi thể tài, từ dạng tạp chí chuyển sang dạng báo (mỗi số khoảng từ 8 đến 12 trang khổ 34x45 cm, nay gọi là khổ A3). Ban đầu, từ 1/11/1954, định kỳ dạng bán nguyệt san, đánh số từ số 57 (tiếp tục 56 số đã ra từ 1948 đến 10/1954), ra vào các ngày 1 và 15 hàng tháng; từ đầu tháng 2/1955 Văn nghệ  ra 3 kỳ/1 tháng; từ đầu tháng 7/1955, Văn nghệ ra hàng tuần.
Toà soạn báo ban đầu đóng ở 51 Trần Hưng Đạo, từ số 76 (7/7/1955) chuyển đến số 6 Quang Trung. Thành phần toà soạn (ghi trên manchette mỗi số báo) gồm: Trần Văn Cẩn, Xuân Diệu, Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Cao Luyện, Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi. Thư ký toà soạn từ số 57 đến số 80 (4/8/1955) là Xuân Diệu.
Từ số 81 (11/8/1955) thành phần toà soạn, ngoài số người như trên, còn có ghi thêm tên Tú Mỡ; thư ký toà soạn là Nguyễn Đình Thi.
Chỗ này cần ghi chú thêm rằng, theo cách cấu tạo thành phần chủ trì một tờ báo "đoàn thể" như tạp chí Văn nghệ từ hồi ở Việt Bắc thì cơ quan này không có các chức danh chủ nhiệm hay chủ bút; vì vậy, thư ký toà soạn giữ vai trò quan trọng nhất trong hoạt động chuyên môn của một cơ quan báo chí, tương tự chức danh Tổng biên tập hiện nay.    
Từ số 121 (17/5/1956) Văn nghệ thay đổi thành phần toà soạn; các thành viên của toà soạn mới gồm: Văn Cao, Xuân Diệu, Tế Hanh, Bùi Hiển, Nguyên Hồng, Tú Mỡ, Chu Ngọc, Sỹ Ngọc; thư ký toà soạn: Nguyễn Đình Thi; thành phần này được giữ nguyên cho đến tận sau Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai (từ 20 đến 28/2/1957), khiVăn nghệ dạng tuần báo tạm dừng lại ở số 162 (1/3/1957) để chuyển đổi tổ chức (sẽ trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam vừa thành lập) và thể tài (sẽ chuyển sang thể tạp chí từ tháng 6/1957).
Như vậy, với tờ báo Văn nghệ thời đầu khi mới trở về Hà Nội (tháng 11/1954 – tháng 3/1957), Xuân Diệu có một thời gian ngắn tiếp tục làm thư ký toà soạn, sau được thay bằng Nguyễn Đình Thi, nhưng Xuân Diệu luôn luôn là thành viên toà soạn. Sau khi Nguyễn Đình Thi thay thế Xuân Diệu ở vai trò thư ký toà soạn, quả là báo Văn nghệ (số 82, ngày 18/8/1955) có đưa tin "nhà thơ Xuân Diệu cùng nhạc sĩ Tạ Phước lên đường đi Hungary hôm 15/8/1955 để dự lễ kỷ niệm 10 năm Cách mạng Việt Nam ở Budapest và nghiên cứu văn học nghệ thuật nước bạn". Ngoài ra, cũng đừng nên quên rằng thời gian này Xuân Diệu vẫn đang là đại biểu quốc hội khoá 1, cho đến năm 1960 mới mãn nhiệm.
Trong thời gian Xuân Diệu giữ vai trò thư ký toà soạn Văn nghệ nói trên (từ 1/11/1954 đến 4/8/1955), có thể thấy báo đã đăng bài vở sáng tác của rất nhiều tác giả, kể cả những tác giả sau đó ít lâu sẽ can dự Nhân văn – Giai phẩm, nhưng ngoại trừ một số bài viết tham gia thảo luận về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu có thể cho là "có vấn đề", còn lại, những bài viết khác hầu như không "có vấn đề" gì cả; khó có thể nhận định rằng thư ký toà soạn Xuân Diệu đã bị khiển trách vì cho đăng các bài vở đó.
Chính trong thời gian Xuân Diệu làm thư ký toà soạn Văn nghệ, cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc và tiểu thuyết Vượt Côn Đảo đã làm sôi nổi không khí văn nghệ miền Bắc ngay sau hoà bình lập lại.
Tập thơ của Tố Hữu phát hành vào giữa tháng 12/1954 thì ngay đầu năm mới, Xuân Diệu đã cho đăng bài viết khá dài của mình liền trong 2 kỳ báo Văn nghệ  (số 62 ra ngày 15/2/1955 và số 63 ra ngày 28/2/1955) nhan đề Đọc tập thơ Việt Bắc. Có lẽ trong việc lên tiếng chào đón tập Việt Bắc thì bài của Xuân Diệu chỉ chậm hơn duy nhất so với bài của Xuân Trường đăng báo Nhân dân số Tết. Theo dõi kỹ tin tức, ta còn biết trong thời gian này, Xuân Diệu ít nhất có 2 lần đi nói chuyện về thơ Tố Hữu với sinh viên.  Nhân tập Việt Bắc, Xuân Diệu điểm lại cả đời thơ Tố Hữu tính đến lúc đó,
"Con đường ngót 20 năm nay Tố Hữu đã đi là một con đường vinh quang kỳ diệu. Chỗ kỳ diệu lớn lao là nhà thi sĩ làm cách mạng và nhà cách mạng làm thơ, và thơ rất thành công" ….. "Cách mạng càng ngày càng thắng lợi, càng to lớn, đồng thời càng đưa tài thơ của Tố Hữu nở dần đến chỗ tròn đầy, lộng lẫy. Đó là sự tương quan mật thiết giữa hành động và văn chương mà Tố Hữu là điển hình đẹp nhất."
Tất nhiên Xuân Diệu không quên chỉ ra những nhưc điểm của tác giả tập thơ Việt Bắc  như "nặng về tình cảm xã hội mà hầu như không nói đến những tình cảm của cá nhân", "con người cán bộ trong Tố Hữu bao trùm con người thường", "nặng về tổng hợp"… "bỏ mất những nỗi niềm của mỗi một con người, của mỗi cá nhân trong quần chúng".(2)
Ngoài vai trò một nhà phê bình như trên, Xuân Diệu trong vai trò thư ký toà soạn báo Văn nghệ hẳn cũng đã giữ vai trò chính trong việc cho đăng hầu hết các bài tham gia thảo luận về tập thơ Việt Bắc. Nếu nói đến phần trách nhiệm (cần phải đưa ra để kiểm điểm chẳng hạn), thì trong số những bài đó có lẽ cần lưu ý trước hết là những bài đánh giá tiêu cực về tập thơ, ví dụ của Hoàng Yến (Tập thơ Việt Bắc có hiện thực không? // Văn nghệ số 65, ngày 11/3/1955; bài này vốn đăng tập san Sinh hoạt văn nghệ, tiền thân tạp chí Văn nghệ quân đội, đồng thời cũng đã đăng báo Nhân dân trong các ngày 3, 4, và 5/4/1955), của Hoàng Cầm (Tập thơ Việt Bắc ít chất sống thực tế // Văn nghệ số 67, ngày 1/4/1955; Bổ sung ý kiến của tôi về tập thơ Việt Bắc // Văn nghệ số 70, ngày 1/5/1955), của Lê Đạt (Giai cấp tính trong thơ Tố Hữu // Văn nghệ số 68, ngày 11/4/1955); của Nguyễn Văn Phú (Vài điểm non yếu trong nghệ thuật tập thơ Việt Bắc // Văn nghệ số 69, ngày 21/4/1955).
Tất nhiên, số bài đánh giá tích cực, đánh giá cao và rất cao tập thơ của Tố Hữu mà toà soạn Văn nghệ cho đăng vẫn nhiều hơn hẳn, trong đó có bài viết của các nhà văn có tên tuổi và cũng đang có thế lực như Xuân Diệu, Hoài Thanh, Tú Mỡ, Nguyễn Đình Thi, v.v…, của các nhà văn có tên tuổi nhưng ít thế lực như Nguyễn Viết Lãm, Vũ Đình Liên, Đông Hoài, của các cán bộ chính trị như Xuân Trường, Trần Độ, Minh Tranh,… của những bạn đọc vô danh mà mà về sau sẽ có người thành danh (Phan Cự Đệ, Hoài Việt, Thẩm Lăng, Trọng Anh); điển hình về sự nhiệt tình đến mức gần như cuồng tín trong số đó là một cây bút mà về sau, khi trở nên hữu danh, sẽ được ghi nhận như cây bút "rắn" nhất, như gương mặt thô bạo hạng nhất, và, − nhờ những ứng xử trong sự kiện này chăng − về sau sẽ trở thành một quan chức có thế lực trong bộ máy quản lý ngành khoa học xã hội: Vũ Đức Phúc. 
Việc báo Văn nghệ thay Xuân Diệu ở vị trí thư ký toà soạn bằng Nguyễn Đình Thi xảy ra khi Văn nghệ đăng đến kỳ thứ 3 bài của Nguyễn Đình Thi viết về tập Việt Bắc (Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng // Văn nghệ số 77, ngày 14/7/1955; Lập trường giai cấp và đảng tính, vấn đề hiện thực và lãng mạn // Văn nghệ số 78, ngày 21/7/1955; Nhà thơ lớn lên với thời đại // Văn nghệ số 79, ngày 28/7/1955); và Văn nghệ ở thời bắt đầu với thư ký toà soạn Nguyễn Đình Thi sẽ đăng bài Ý kiến kết thúc cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc của Hoàng Trung Thông (Văn nghệ số 81, ngày 11/8/1955; Nhân dân, ngày 11/8 và 12/8/1955).
Như vậy, nhân điều nói trong bài của Cù Huy Hà Vũ (2007), người ta nếu muốn cũng chỉ có quyền suy luận ở mức độ như sau: việc Xuân Diệu thôi (hoặc bị thay) chức thư ký toà soạn báo Văn nghệ hồi tháng 8/1955 có thể có liên quan đến việc thư ký toà soạn Xuân Diệu đã cho đăng những bài đánh giá tiêu cực tập thơ Việt Bắc (đã dẫn trên). Nhưng nhìn rộng hơn, cần thấy rằng việc đó liên quan đến việc báo Văn nghệ − và các cán bộ phụ trách ban Văn của Hội Văn nghệ Việt Nam khi đó − chỉnh sửa cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc, can thiệp vào tiến trình thảo luận.
Việc thảo luận về tập thơ này của Tố Hữu vốn xuất phát từ những buổi thảo luận mang tính chất "câu lạc bộ" tại Phòng Văn nghệ quân đội hồi đầu năm 1955 về hai tác phẩm vừa xuất bản: một là tiểu thuyết Vượt Côn Đảo của Phùng Quán, một nữa là tập thơ Việt Bắc cuả Tố Hữu. Các báo Văn nghệ và báo Nhân dân xem đây là dịp tốt để đẩy mạnh phong trào phê bình văn nghệ, đã chọn một bài tại cuộc thảo luận ở văn nghệ quân đội (bài của Hoàng Yến, đăng lần đầu trên tờ Sinh hoạt văn nghệ số 35) đăng lại ở báo nhà và lên tiếng mời bạn đọc tham gia thảo luận, do đó đã tạo nên một sinh hoạt văn nghệ tương đối sôi nổi tại thành phố mới tiếp quản. Rất có thể vì báo Văn nghệ đăng một số bài thiên về chê thơ Việt Bắc của Tố Hữu (nhất là các bài của Hoàng Cầm, Lê Đạt) nên những người đứng đầu Hội Văn nghệ và ban Văn của Hội đã nhận ra cuộc thảo luận đã hơi quá đà và vội ra tay chỉnh hướng thảo luận: đăng nhiều bài khen ngợi, nhất là loạt bài của Nguyễn Đình Thi, rồi nhanh chóng đăng bài của Hoàng Trung Thông, coi như ý kiến kết thúc chung cho cả hai báo Văn nghệ  và Nhân dân về cuộc thảo luận này.
Khoảng 4 tháng sau, nhân kiểm điểm tình hình văn nghệ năm 1955, Hoài Thanh trong vai trò một người "lãnh đạo văn nghệ" (lúc này ông đang là Vụ trưởng vụ nghệ thuật, bộ Văn hóa, đồng thời là ủy viên thường vụ Hội Văn nghệ VN), nhận xét: "Về mặt phê bình cũng phạm nhiều sai lầm thiếu sót. Công tác phê bình ít được chú ý. Thỉnh thoảng có một cuộc phê bình như cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc thì lại có tính chất tự phát, thiếu chuẩn bị, thiếu mục đích rõ ràng, thiếu kết hợp với yêu cầu đấu tranh chính trị và tư tưởng" (Hoài Thanh: Nhìn lại hoạt động văn nghệ một năm qua // Nhân dân, ngày 29/1/1956, tr.3).
Ý kiến trên là nhận định từ phía người quản lý; còn ý kiến nhận xét về cuộc thảo luận ấy từ phía những người bị quản lý thì ta thấy bộc lộ muộn hơn. Trong không khí góp ý kiến phê bình lãnh đạo văn nghệ và chuẩn bị cho Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2, tức là từ cuối tháng 8/1956, trong dư luận đăng báo mới có những lời ta thán rằng những người chủ trì báo Văn nghệ đã kết thúc cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc một cách "quá vội vã", "chưa thoả mãn quần chúng" (lời Nguyễn Bính, sẽ dẫn thêm ở phần sau).  
Nói như Cù Huy Hà Vũ (2007) rằng lý do bị thôi chức thư ký tòa soạn là vì Xuân Diệu đã cho đăng các bài của Thụy An, Phan Khôi, − là điều hoàn toàn không phù hợp với thực tế. Văn nghệ từ số 57 đến số 80 (thời kỳ Xuân Diệu làm thư ký toà soạn) hầu như không đăng gì của nữ tác giả Thụy An, chỉ đăng của Phan Khôi duy nhất một bài viết nhân 60 năm sinh Lý Cơ Vĩnh, nhà văn Triều Tiên (Văn nghệ  số 74, ngày 10/6/1955), bài viết này không mang dấu hiệu nào để có thể "làm án" bất cứ ai, − người viết bài (là Phan Khôi) hay người cho đăng bài (là thư ký tòa soạn Xuân Diệu)!  
*** 
2a. Bước sang năm 1956, xã hội và văn hoá văn nghệ ở miền Bắc chứng kiến những diễn biến phức tạp, có lúc đang ở hướng này đột ngột rẽ sang hướng khác.
Ngay vào dịp Tết nguyên đán, tập sách Giai phẩm mùa Xuân 1956 của Nhà xuất bản Minh Đức vừa ra mắt đã bị tịch thu, nhưng có lẽ cũng đã lọt ra ngoài một ít cuốn, và ban Văn của Hội Văn nghệ Việt Nam đã tổ chức một cuộc họp do Hoài Thanh chủ trì nhằm phê phán bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần, − một trong những tác phẩm đăng trong tập Giai phẩm mùa Xuân 1956 kể trên. Báo Văn nghệ đăng bài của Hoài Thanh:Vạch tính chất phản động của bài "Nhất định thắng" của Trần Dần (VN s. 110, ngày 1/3/1956), tiếp đó đăng bài dài 3 kỳ của Nguyễn Đình Thi Những sai lầm về tư tưởng trong tập sách Giai phẩm (VN s. 117, ngày 19/4/1956; VN s. 118, ngày 26/4/1956; VN s. 119. ngày 3/5/1956). Cũng dịp này, báo chọn dịch đăng các bài hỗ trợ công việc phê bình nêu trên, ví dụ bài Vai trò lãnh đạo của Đảng, trích văn kiện ĐH 20 ĐCS  Liên Xô, do Xuân Diệu dịch (VN s. 110, ngày 1/3/1956), bài Văn nghệ là sự nghiệp của nhân dân, cũng rút từ báo Văn học Liên Xô nói về văn nghệ Hungary, do Vũ Thông dịch (VN s. 111, ngày 15/3/1956), bài Nguyên tắc của chủ nghĩa Lê-nin về Đảng tính trong văn học của Lê-xuy-sép-ski do Việt Lam trích dịch (VN s. 118, ngày 26/4/1956). Nhưng việc phê phán sách Giai phẩm mùa Xuân bỗng đột ngột dừng lại.
Vì sao? Có lẽ vì những diễn biến bên ngoài.
Người ta biết, tháng 2/1956, Đảng Cộng sản Liên Xô họp đại hội lần thứ 20, trong đó, phần báo cáo về những tổn thất do tệ sùng bái cá nhân của Stalin gây ra tuy không được trình bày công khai, nhưng hẳn đã được thông báo tới các đảng cộng sản và công nhân có đoàn đại biểu đến dự, trong đó, có đoàn của Đảng Lao động Việt Nam (gồm Tổng bí thư Trường Chinh và Ủy viên bộ chính trị Lê Đức Thọ). Đảng Lao động Việt Nam đã triệu tập hội nghị Ban chấp hành trung ương mở rộng từ 19 đến 24/4/1956 để nghe báo cáo về ĐH 20 ĐCS LX, ra nghị quyết trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ chống sùng bái cá nhân, thực hiện phương thức lãnh đạo tập thể, đẩy mạnh phê bình và tự phê bình trong sinh hoạt đảng;(3) đó là nghị quyết 9 (nhiệm kỳ 2). Vấn đề nêu ra trong nghị quyết 9 nói trên càng trở nên rõ ràng khi tin tức về việc Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô ngày 30/6/1956 thông qua nghị quyết chống sùng bái cá nhân được đăng tải khá kỹ càng trên nhật báo Nhân dân của Đảng Lao động Việt Nam.(4)
Với việc Đảng LĐVN ra nghị quyết 9 (khoá 2) nhắc trên, bản nghị quyết này cũng yêu cầu phổ biến tinh thần "chống sùng bái cá nhân, thực hiện lãnh đạo tập thể, phê bình và tự phê bình" đến các cấp các ngành; vì vậy, hội Văn nghệ Việt Nam đã thực hiện nhiệm vụ trên bằng việc tổ chức cuộc học tập nghiên cứu lý luận cho trên 200 văn nghệ sĩ từ 1/8 đến 18/8/1956.  
 Cũng chính từ tinh thần học tập các văn kiện ĐH 20 ĐCS LX mà BCH TƯ ĐLĐ VN đã phát hiện ra những sai lầm của cuộc cải cách ruộng đất, nhất là sau kết quả CCRĐ đợt 5, triệu tập hội nghị trung ương mở rộng lần thứ 10 và ra nghị quyết sửa sai. "Hội  nghị Trung ương Đảng lần thứ 10 đã đi đến nhận định nhất trí rằng chỉnh đốn tổ chức ở các cấp tỉnh, huyện là một thất bại, chỉnh đốn chi bộ ở xã đã gây những tổn thất rất nặng nề cho Đảng".(5) Sự kiện này, xin sẽ vắn tắt đề cập ở một đoạn sau. 
2b. Tuy nhiên, liên quan đến Xuân Diệu, ta hãy tạm dừng lại ở đời sống văn nghệ trong đoạn thời gian trước khi có các diễn biến chính trị kể trên, tức là từ sau cuộc thảo luận về tập thơ "Việt Bắc" đến trước tháng 8/1956.
Ngay từ đầu năm 1956, dư luận trong giới văn nghệ có ít nhiều chấn động vì  kết quả giải thưởng văn học 1954-55 của Hội Văn nghệ Việt Nam (công bố trên báo Văn nghệ số 112, ngày 15/3/1956), theo đó về thơ, ngoài giải nhất được trao cho tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, còn có 3 giải nhì: Giải nhì  A trao cho 2 tập Đồng tháng tám Dặn con, thơ và ca dao về nông dân kháng chiến và phát động quần chúng của Trần Hữu Thung; giải nhì B trao cho Ngôi sao, tập thơ của Xuân Diệu; giải nhì C trao cho Nụ cười chính nghĩa, tập thơ đả kích của Tú Mỡ; giải ba trao cho tập Thơ chiến sĩ của Hồ Khải Đại; và một số tác phẩm khác được trao giải khuyến khích (bên cạnh đó còn có các giải về tiểu thuyết, kịch, ký sự, dịch văn học).
Việc tập thơ Ngôi sao của Xuân Diệu ở vị trí giải nhì gây phản ứng trong một số không ít văn nghệ sĩ, tiêu biểu là sự phê bình của báo Trăm hoa. (Các bài phê bình của báoTrăm hoa,  [đây là Trăm hoa loại cũ, ra từ tháng 9/1955 đến tháng 6/1956]  khi giải thưởng văn học 1954-55 vừa công bố, hiện nay tôi chưa tìm lại được; nhưng đã thấy một khung quảng cáo "Báo mới" trên trang 3 của tờ "Hà Nội hàng ngày" số 280 ra ngày 25/4/1956 cho biết:Trăm hoa số 28 có bài phê bình của Trần Lê Văn nhan đề "Đọc 'Ngôi sao', thơ của Xuân Diệu"; một nguồn gián tiếp khác là trên chính báo Văn nghệ, Trần Lê Văn [VN. s. 136, ngày 30/8/1956] và Nguyễn Bính [VN. s. 125, ngày 14/6/1956] nói rõ tuần báo Trăm hoa (loại cũ) đã đăng liền 3 bài phê phán việc trao giải nhì cho tập Ngôi sao).  
Dù luồng ý kiến ấy có bị một số người cho là ác ý đi nữa, thì một trong những người giữ trọng trách trong ban chấm giải là Hoài Thanh cũng đã phải lên tiếng, chủ yếu để bênh vực ban chấm giải, nhưng bằng cách khẳng định giá trị tập thơ của Xuân Diệu (Một vài ý kiến về tập thơ "Ngôi sao" của Xuân Diệu // VN. s. 122, ngày 24/5/1955).
         
"…Cách mạng càng tiến lên, Xuân Diệu càng thêm gắn bó với quần chúng, nhất là với quần chúng nông dân, nhờ đó thơ Xuân Diệu càng thêm chắc về nội dung tình cảm, thêm giản dị về điệu về lời. Và đã có lúc chúng ta tưởng như gặp một Xuân Diệu hoàn toàn mới. Nhưng cuộc đấu tranh giữa cái mới và cũ trong thơ Xuân Diệu cũng như trong con người của mỗi chúng ta là một cuộc đấu tranh gay go. Trong cái mới sao cho khỏi rơi rớt lại những cái cũ. Cái phần cũ tôi muốn nói cái phần sống sượng, lệch lạc, giả tạo trong thơ Xuân Diệu cũng còn nhiều. Nhưng hôm nay tôi không định nói về phần ấy. Tôi muốn nói về cái phần đứng đắn, chân thành trong thơ Xuân Diệu"…
Như vậy, tuy giành phần lớn bài viết để nói về chỗ khả thủ ở tập thơ Ngôi sao, Hoài Thanh vẫn mặc nhiên thừa nhận phương diện chưa thành công, "sống sượng, lệch lạc, giả tạo" ở tập thơ này của Xuân Diệu.
Song, bài viết trên của Hoài Thanh bị xem là chỉ nhằm xoa dịu dư luận, − nhà thơ Nguyễn Bính lên tiếng như vậy (Hội cần phải mạnh dạn tự phê bình // VN. s. 125, ngày 14/6/1956) và nói rõ sự thắc mắc của dư luận trong ngoài giới văn nghệ về việc trao giải nhì cho tập Ngôi sao:
         
"Thắc mắc chung quanh tập Ngôi sao thực là nhiều và sôi nổi. Có những thắc mắc đã nói ra trên báo chí, có những thắc mắc chỉ trao đổi trong những cuộc mạn đàm. Có những thắc mắc trong anh em văn nghệ, có những thắc mắc của bạn đọc. Của những người ở vùng tự do cũ, cũng như ở vùng mới giải phóng, ở nhiều tầng lớp khác nhau, trong những cương vị công tác, hoạt động khác nhau. Nói chung, phần tán thành ít mà phần thắc mắc thì hầu như phổ biến. Tập thơ Ngôi sao lại đã xuất bản trước khi công bố giải thưởng.(5) Ngay khi chưa biết nó được giải cũng đã nhiều anh em phàn nàn về những mặt hỏng của nó. Sao không có một cuộc thăm dò dư luận từ trước? Quả là ban giám khảo chưa thực mở rộng dân chủ, chưa tha thiết lắng nghe ý kiến nguyện vọng của quần chúng. Sự định đoạt giá trị và thứ bậc tác phẩm hầu như chỉ thu hẹp trong phạm vi ban giám khảo, trong sự bàn cãi phân tách của một số nhỏ người.
[…] Đối với những phản ứng trong quần chúng, Ban chấm giải không tự kiểm điểm, không trưng cầu ý kiến của quần chúng, khơi cho hết thắc mắc của mọi người, mà chỉ tìm cách xoa dịu bằng một bài báo nặng tính cách bào chữa của Hoài Thanh trong Văn nghệ số 122. Một vài anh em còn không bằng lòng ra mặt những bài phê bình tập Ngôi sao trên báo Trăm hoa, cho đó là lối "đập" thiên lệch và ác. Trong khi ấy trên tờ báo của Hội vẫn có những bài phê bình có tính cách "đập" thiên lệch và ác như bài của Nguyễn Đình Thi phê bình Giai phẩm. Phải chăng đó là lưu tệ của cái thói "lỗi người để túi trước, lỗi mình để túi sau"? Chính vì vậy mà có tình trạng nhiều bạn nêu lên thắc mắc muốn thành khẩn xây dựng cho cơ quan lãnh đạo Hội, song lại sợ bị thành kiến. Dĩ nhiên những thái độ của mấy bạn đó cũng cần được kiểm điểm lại, nhưng do đấy mà thành một vấn đề: những người lãnh đạo và phụ trách công tác Hội đã làm thế nào để anh em dè dặt đến như vậy?" 
Một cây bút phê bình khác là Huy Phương (Phát biểu về tập thơ "Ngôi sao" của Xuân Diệu // VN. s. 126, ngày 21/6/1955) cũng đánh giá không khả quan về tập thơ này của Xuân Diệu.  
 
"… những lúc nào Xuân Diệu bạo dạn đi vào thực tế, được chất chiến đấu của thực tế tác động mạnh mẽ vào tâm hồn, thì ta thấy anh cũng đã viết được những bài thơ thành công"… "Nhưng những khi Xuân Diệu trở về với "hồn thơ" của mình thì thơ anh chỉ là tiếng nói yếu đuối của con người còn vướng mắc trong cái "tôi" riêng lẻ bé nhỏ.
 
[...] Nói đến sự hy sinh anh dũng của chiến sĩ, Xuân Diệu viết những câu này:
          Giữa xuân nay muôn chiến sĩ say mê
           Lấy máu tuỷ đổ ra đời bát ngát
           Ngừng tay lại thấy sức xuân còn nhạt
          Đổ máu thêm cho đến lúc toàn hồng  
Đọc những câu thơ nhễ nhại những máu huyết ấy, người đọc thật là thấy giận cái bệnh "khoái cảm" của tác giả. Những câu thơ như vậy không phải là những trường hợp ngẫu nhiên trong thơ Xuân Diệu. Nó là biểu hiện của cả một thái độ sống bắt nguồn từ cả một hệ thống ý thức và tình cảm của tác giả. […] trong nghệ thuật, nhất là trong thơ, không thể nào gạt bỏ được phần cảm giác nó là một cạnh khía quan trọng của khả năng cảm thông của tác giả với thực tế. Nhưng khi cảm giác của nghệ sĩ thiên về tính chất hình thức và hưởng thụ, thậm chí trở thành một động cơ sáng tác thì đó là biểu hiện của bản chất hưởng lạc và cá nhân của chủ nghĩa lãng mạn tư sản.
[…] Tập Ngôi sao đánh dấu một quá trình dài trong bước đường làm thơ của Xuân Diệu. […] Nhưng cái mức chung của Xuân Diệu trong Ngôi sao vẫn là còn thấy mình bé nhỏ, là kẻ chịu ơn và được hưởng thụ nhiều hơn là thấy mình là người chiến đấu có một trách nhiệm nặng nề và vinh quang. Chính vì thế mà thơ Xuân Diệu không đi sâu được vào lòng chúng ta".
Có thể nói, đó là những lời bình luận không hề dễ lọt tai tác giả; nhưng không thấy Xuân Diệu trả lời, cũng giống như Xuân Diệu đã không lên tiếng trả lời 3 bài viết về tập Ngôi sao của báo Trăm hoa. Về chuyện này, hậu thế đừng nên nhận xét là nhà thơ đã tỏ ra "học phiệt" với dư luận (theo chữ "học phiệt" mà Phan Khôi đã dùng vào năm 1930 để xác định thái độ Phạm Quỳnh không trả lời Ngô Đức Kế năm 1925). Trong đời sống văn nghệ những năm 1950-60 ở miền Bắc, một tờ báo "của đoàn thể" (không phải báo tư nhân) như Văn nghệ rất ít khi dành trang cho tác giả lên tiếng trả lời các bài phê bình tác phẩm của mình, khi thật cần trả lời, phải được phép, thậm chí phải trở thành chủ trương của ban lãnh đạo tờ báo.
Không lên tiếng trả lời, nhưng hẳn Xuân Diệu sẽ không quên những món nợ loại như vậy trong giới của mình. Tạp chí Tác phẩm mới (1969-1976) mà Xuân Diệu là một trong số vài ba nhân vật chủ chốt cầm lái, đã hầu như không nhắc gì đến Nguyễn Bính, đã làm như thể không hề có Nguyễn Bính trong nền thơ Việt thế kỷ XX, − đó có lẽ là cách "trả đũa" của Xuân Diệu, cố nhiên là có sự đồng tình của một số tên tuổi khác. Phải nhờ có dư luận văn nghệ miền Nam nhắc nhở, tên tuổi Nguyễn Bính mới được sống lại với công chúng miền Bắc từ 1986. 
***
 
3a. Chúng ta tiếp tục theo dõi đời sống văn nghệ miền Bắc từ giữa năm 1956. Việc Hội Văn nghệ Việt Nam mở lớp nghiên cứu lý luận văn nghệ (từ 1/8 đến 18/8/1956) cho trên 200 văn nghệ sĩ và người công tác văn nghệ, trên thực tế, đã mở đầu cho một thời điểm bộc phát nhiều vấn đề tiềm ẩn chất chứa.
Bản dịch bài báo "Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng" của Lục Định Nhất, được báo Văn nghệ trích dịch đăng tải (số 134, ngày 16/8/1956) sớm hơn báo Nhân dân (báo này đưa tin bằng "Thư Bắc Kinh" của Lê Hào từ 5/8/1956, nhưng  chỉ cho đăng bản dịch toàn văn ở số ra ngày 30/9/1956), cùng lúc với những ý kiến văn nghệ sĩ tham gia diễn đàn "Tiến tới Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai", trong đó nhiều ý kiến nêu lên những hiện tượng gò bó, máy móc, áp đặt từ phía những người quản lý văn hoá văn nghệ mà đương thời gọi chung bằng mấy từ "lãnh đạo văn nghệ".
Những người thuộc thành phần "lãnh đạo văn nghệ" ấy là những ai? Trong mắt văn nghệ sĩ đương thời, đó có khi là các cơ chế, cơ quan, ví dụ phòng văn nghệ quân đội, hội Văn nghệ Việt Nam, có khi là những quan chức cụ thể, chẳng hạn như Nguyễn Tuân, tổng thư ký Hội Văn nghệ, như Hoài Thanh, giám đốc Vụ nghệ thuật Bộ văn hoá, như Tố Hữu, uỷ viên trung ương Đảng phụ trách tuyên huấn, v.v…   
Các ý kiến phê bình và thảo luận đó khá nhiều; mỗi tuần báo Văn nghệ dành ít nhất là 2 trang để đăng tải; tính từ lúc Văn nghệ (số 122, ngày 24/5/1956) đăng thông báo của ban trù bị Đại hội Văn nghệ toàn quốc đến ngày họp Đại hội (20/2/1957), việc thảo luận trải ra trong suốt 7 – 8 tháng. Người ta bàn đến nhiều chuyện: quan hệ giữa văn nghệ và chính trị với những quan niệm khác nhau xung quanh vấn đề sáng tác phục vụ chính sách; quan niệm về tự do sáng tác, về "trăm hoa đua nở"; quan niệm hiện thực xã hội chủ nghĩa; vấn đề khai thác và phát triển các hình thức nghệ thuật dân tộc, v.v… nhưng sôi nổi hơn cả vẫn là những chuyện chống công thức sơ lược, "phê bình lãnh đạo văn nghệ" tức là nhận xét phê bình về việc chỉ đạo và quản lý hoạt động văn hoá văn nghệ của các cơ quan quản lý "đoàn thể" (= hội Văn nghệ) hoặc chính quyền (= vụ nghệ thuật, bộ văn hoá…).
Trong không khí ấy, một số "lãnh đạo văn nghệ" đã lên tiếng tự phê bình, ví dụ Hoài Thanh (Tôi đã sai lầm như thế nào trong việc phê bình bài "Nhất định thắng" của anh Trần Dần // Văn nghệ số 139, ngày 20/9/1956), Nguyễn Tuân (Về giải thưởng văn học 1954-55 // Văn nghệ số 140, ngày 27/9/1956). Nguyễn Đình Thi cũng khởi đăng bài Một vài sai lầm trong sự lãnh đạo văn nghệ (Văn nghệ số 140 đã dẫn), hứa hẹn sẽ là bài đăng nhiều kỳ, nhưng sau kỳ đầu rồi không thấy đăng tiếp. Cũng dịp này, Ban thường vụ Hội Văn nghệ ra thông cáo (đăng Văn nghệ số 141, ngày 4/10/1956) "thừa nhận những sai lầm của mình trong cách tổ chức và lãnh đạo cuộc phê bình bài Nhất định thắng của Trần Dần", thừa nhận những thiếu sót khuyết điểm trong việc chấm giải thưởng văn học 1954-55 (trong đó thừa nhận tập Ngôi sao của Xuân Diệu chỉ đáng giải ba đã được nể nang đưa lên giải nhì). Tuy nhiên, sự thành khẩn tự phê bình từ phía lãnh đạo hội Văn nghệ hầu như chỉ dừng lại ở đấy. Có thể là vì tiếp đó họ phải tập trung đối phó với nhiều sóng gió mới, nặng nề hơn.
Người ta biết, sau thời điểm lớp nghiên cứu lý luận văn nghệ kết thúc không lâu, một loạt ấn phẩm có giọng điệu phê bình mạnh mẽ hơn đã liên tiếp xuất hiện, − những ấn phẩm mà chỉ vài năm sau sẽ bị dư luận chính thống làm cho vĩnh viễn ô danh bằng định ngữ "phản động" và bằng các mệnh lệnh "cấm đọc, cấm phổ biến" được thực thi rất chặt chẽ.
Tháng 8/1956 tập sách Giai phẩm mùa thu 1956 tập I (Nxb. Minh Đức) ra mắt, trong đó mạnh mẽ nhất là bài của Phan Khôi Phê bình lãnh đạo văn nghệ.
Tháng 9/1956 sách Giai phẩm mùa thu tập II (Nxb. Minh Đức) ra mắt, trong đó mạnh mẽ nhất có lẽ là bài của Trương Tửu Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ.
Ngày 20/9/1956 tờ báo tư nhân mang tên Nhân văn (chủ nhiệm Phan Khôi, thư ký tòa soạn Trần Duy) ra mắt số 1 trong đó có các bài Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người Trần Dần của Hoàng Cầm, Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, Chống bè phái trong văn nghệ của Trần Công, Phỏng vấn giáo sư Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề mở rộng tự do dân chủ, v.v…
Ngày 30/9/1956 báo Nhân văn ra số 2 với những bài: Phấn đấu cho trăm hoa đua nở của Trần Duy, Không sợ địch lợi dụng của Trần Lê Văn, phỏng vấn học giả Đào Duy Anh về mở rộng tự do dân chủ, bài trả lời tác giả Nguyễn Chương của báo Nhân dân, cho rằng ký giả này đã "vu cáo chính trị" đối với báo Nhân văn, v.v…
Ngày 15/10/1956 báo Nhân văn ra số 3 với những bài Nỗ lực phát triển tự do dân chủ của Trần Đức Thảo, phỏng vấn bác sĩ Đặng Văn Ngữ về mở rộng tự do dân chủ, các ý kiến phản hồi về sự tự phê bình của Hoài Thanh đối với vụ phê phán bài thơ "Nhất định thắng", v.v…
Ngày 20/10/1956, tuần báoTrăm hoa do Nguyễn Bính chủ trì đã tục bản sau nửa năm vắng mặt, lại mạnh mẽ đặt vấn đề: phải sửa sai đối với giải thưởng văn học 1954-55, − một việc mà lãnh đạo Hội Văn nghệ tuy đã thừa nhận có khuyết điểm song không hề sửa chữa trên thực tế (và sau đó mãi mãi không thay đổi). Trăm hoa cũng thường nêu lên những hiện tượng áp đặt máy móc của chính quyền trong sinh hoạt thường ngày ở đô thị (ví dụ quy chế khai báo hộ khẩu khiến chồng không thể về ở nhà mình qua đêm) và nhất là hiện tượng bè phái trong văn nghệ (những văn nghệ sĩ hồi kháng chiến cùng ở Việt Bắc đến lúc này thường ưu tiên ưu đãi nhau, từ việc xét giải thưởng và đi nước ngoài đến việc đăng bài vở, tác phẩm; một số văn nghệ sĩ miền Nam tập kết thiếu chỗ đăng bài, đã đến với với Trăm hoa hoặc một số báo tư nhân khác).
Trong tháng 10/1956 tập sách Giai phẩm mùa xuân 1956 từng bị thu hồi đầu năm, được in lại và phát hành.
Ngày 5/11/1956 báo Nhân văn ra số 4, với những bài của Nguyễn Hữu Đang (Cần phải chính quy hơn nữa), Trần Duy (Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ), truyện ngắn của Phùng Cung (Con ngựa già của chúa Trịnh), rồi bài nêu vụ việc một cán bộ sở báo chí trung ương đến toà báo Trăm hoa gây gổ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính, bài của Bùi Quang Đoài đáp lại bài viết về chủ nghiã nhân văn của Hoàng Xuân Nhị trên báo Nhân dân, v.v…
Số báo Nhân văn này gần như ra cùng lúc với quyển mới Giai phẩm mùa thu tập III của nhà Minh Đức, trong đó có phần đầu bài Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu, bài Muốn phát triển học thuật của Đào Duy Anh, thơ của Phan Khôi, Mai Hanh, bài Chủ nghĩa xã hội và nhà nước của một tác giả Nam Tư do Bùi Quang Đoài dịch, v.v…
Ngày 20/11/1956, báo Nhân văn ra số 5, với những bài phản đối sở báo chí trung ương thi hành kỷ luật báo Nhân văn, các bài của H.L. (Không có lý gì mà không tán thành trăm hoa đua nở), Nguyễn Hữu Đang (Hiến pháp Việt Nam 1946 và hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào?), Trần Duy (Góp ý kiến về phần tự do dân chủ trong nghị quyết TƯ lần thứ mười), N.Q.S. (Bài học Ba-lan và Hung-ga-ri), Châm Văn Biếm (Thi sĩ máy), Hoàng Tố Nguyên (Tiếng hát quê hương), v.v… 
Cuối tháng 11/1956 Giai phẩm mùa đông 1956 tập I của nhà Minh Đức ra mắt với những bài của Trương Tửu (Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lãnh đạo của đảng cộng sản bôn-sê-vích), Trần Đức Thảo (Nội dung xã hội và hình thức tự do), Sỹ Ngọc (Làm cho hoa nở bốn mùa), Nguyễn Mạnh Tường (Hai câu chuyện),  Hữu Loan (truyện ngắn Lộn sòng), Trần Dần (dịch thơ Mai-a-kốp-ski), Hoàng Cầm (kịch thơ Hướng đi lên bắc), Phùng Quán (thơ Ai người hiểu rõ nhất?), v.v…
Cùng thời gian ấy, loại sách "Đất mới" của Nhà xuất bản Minh Đức ra tập I nhan đề "Chuyện sinh viên"  với bài của các tác giả Nguyễn Bao, Bùi Quang Đoài, Thúc Hà, Dương Viết Á, Văn Tâm, v.v…
Khuynh hướng thể hiện trong các ấn phẩm trên, tất nhiên bị phản đối dữ dội từ phía các tờ báo chính thống. Trước hết là báo Nhân dân với các tác giả Nguyễn Chương, Quang Đạm, Xuân Trường, Hoàng Xuân Nhị, và những bạn đọc của báo ấy, v.v… Tuần báo Văn nghệ thì vừa tiếp tục vai trò làm diễn đàn chuẩn bị Đại hội Văn nghệ toàn quốc để cho đăng những bài góp ý phê bình lãnh đạo văn nghệ, vừa dành trang phê bình của báo (kể từ số 141, ngày 4/10/1956) cho những bài phê phán các số Nhân văn và các tập Giai phẩm, thậm chí dành trang cho cuộc thảo luận giữa Nguyễn Hữu Đang và Hồng Vân (Hoàng Trung Thông) xung quanh khẩu hiệu "trăm hoa đua nở", khi báo Nhân văn và các tập Giai phẩm đã thôi không còn được ra thêm nữa.
Sự phức tạp của tình hình là ở những động thái đột xuất tạm thời cắt ngang dòng ý kiến phê phán báo Nhân văn và các tập Giai phẩm: ấy là ngày 30/10/1956 với việc công bố nghị quyết hội nghị trung ương Đảng lần thứ 10 (mở rộng) nêu lên những sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, đồng thời nêu quyết tâm sửa chữa những sai lầm ấy, công bố những việc lớn như cử lại chức Tổng bí thư Đảng LĐ VN (Trường Chinh thôi chức này, Hồ Chí Minh kiêm nhiệm), cách chức những quan chức cao cấp của Ủy ban CCRĐ TƯ (chỉ thấy nêu 2 trường hợp Hồ Viết Thắng và Lê Văn Lương), tuyên bố vô hiệu hóa lập tức quyền hạn của UBCCRĐ từ trung ương đến các cấp (các ủy ban này vốn có quyền xét duyệt các quyết nghị về quy thành phần gia cấp các hộ gia đình tại các địa phương, ký duyệt việc trưng thu trưng mua ruộng đất và tài sản những hộ địa chủ phú nông, xét duyệt các mức án tù hoặc tử hình đối với người bị quy là địa chủ phản động, v.v…; các ủy ban này từ đây trở thành những cơ quan chỉ còn chức năng nghiên cứu, ít lâu sau sẽ bị giải tán), giải tán ngay các tòa án nhân dân đặc biệt các cấp do các UBCCRĐ lập ra, nêu ra hàng loạt biện pháp sửa sai, từ các tiêu chuẩn để hạ thành phần cho những người bị quy vào các thành phần bóc lột đến việc minh oan cho những cán bộ đảng viên bị quy vào thành phần phản động các loại.(6)
Sự kiện chấn động đời sống chính trị miền Bắc này, tuy vậy, chỉ làm gián đoạn chốc lát chứ không làm thay đổi chiều hướng phê phán nhằm vào 5 số báo Nhân văn và 5 tập Giai phẩm; tất nhiên trên một số vấn đề sẽ xuất hiện một vài khía cạnh sẽ được biện luận thêm, ví dụ sự "phê bình" được phân chia thành "phê bình xây dựng" và "phê bình phá hoại".     
Ngày 8/11/1956, báo Nhân văn bị Sở báo chí trung ương cảnh cáo vì vi phạm quy chế lưu chiểu.
Ngày 15/11/1956, Ủy ban hành chính TP Hà Nội ra quyết định đình bản báo Nhân văn đồng thời cấm lưu hành tất cả 5 số Nhân văn đã phát hành trước đó.
Các tập Giai phẩm cũng không được cấp giấy phép để ra tiếp, nhà Minh Đức chỉ ra thêm được một tập sách cũng có dạng "giai phẩm" (gồm các sáng tác thơ văn của nhiều tác giả, chỉ không có bài nào là nghị luận) tuy mang tên Sách Tết 1957, với kích cỡ gần như một số báo (32 trang 30 x 40 cm).
Ngày 14/12/1956, Chủ tịch nước VNDCCH ban hành sắc lệnh về chế độ báo chí; văn kiện này đã đề ra những nội dung mà sau này người ta sẽ gọi là "vùng cấm" trong hoạt động thông tin ngôn luận của báo chí:
"a/ Không được tuyên truyền chống pháp luật của nhà nước. Không được cổ động nhân dân không thi hành hoặc chống lại những luật lệ và những đường lối, chính sách của nhà nước. Không được viết bài có tính chất chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chia rẽ nhân dân và chính quyền, nhân dân và bộ đội. Không được gây ra những dư luận hoặc những hành động có hại cho an ninh trật tự của xã hội.
 
b/ Không được tuyên truyền phá hoại sự nghiệp củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ của nước Việt Nam, làm giảm sút tinh thần đoàn kết, ý chí phấn đấu của nhân dân và bộ đội.
 
c/ Không được tuyên truyền chia rẽ dân tộc, gây thù hằn giữa nhân dân các nước, làm tổn hại tình hữu nghị giữa nhân dân nước ta với nhân dân các nước bạn, không được tuyên truyền cho chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, không được tuyên truyền cho chủ nghĩa đế quốc, không được tuyên truyền cho chiến tranh.
 
d/ Không được tiết lộ bí mật quốc gia như: những bí mật quốc phòng, những hội nghị cơ mật chưa có công bố chính thức của cơ quan có trách nhiệm, những vụ án đang điều tra chưa xét xử, những bản án mà tòa án không cho phép công bố, những tài liệu, số liệu và những cơ sở kiến thiết về kinh tế tài chính mà ủy ban kế hoạch nhà nước hoặc các cơ quan có thẩm quyền chưa công bố.
e/ Không được tuyên truyền dâm ô, trụy lạc, đồi bại."
(Sắc lệnh về chế độ báo chí // Nhân dân, 15/12/1956, tr. 1)   
Giữa tháng 12/1956, Trung ương Đảng triệu tập hội nghị đảng viên văn nghệ, thống nhất nhận thức tư tưởng trước khi bước vào đại hội văn nghệ, tại đó hiện tượng Nhân văn – Giai phẩm đã bị lên án.
Tại kỳ họp lần thứ 6 của Quốc hội (khoá I), ngày 18/1/1957, dân biểu Nguyễn Đình Thi đã chính thức phát biểu trước Quốc hội: "Trong khi chúng ta phê bình những sai lầm khuyết điểm, đã có một vài khuynh hướng xấu len vào vu khống chế độ của ta, đả kích sự lãnh đạo của đảng và chính phủ, đối với những người trí thức, tìm cách gây hoang mang chia rẽ. Những khuynh hướng xấu đó gần đây đã được vạch ra, cuộc đấu tranh tư tưởng chung quanh vấn đề văn nghệ hiện nay đang làm cho những người trí thức nước ta trưởng thành lớn thêm một bước nữa"…(7)     
Ngày 20/2/1957, Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai khai mạc và tiếp diễn trong 8 ngày; đại hội này đã quyết định chấm dứt Hội Văn nghệ Việt Nam để thành lập Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, khuyến khích các ngành văn nghệ thành lập Hội của ngành mình, đặt trong khuôn khổ Hội Liên hiệp VHNTVN. Trong thời gian đại hội, với tư cách đại diện Đảng Lao động Việt Nam, ông Trường Chinh, được Ban chấp hành hội Văn nghệ giới thiệu như "người bạn thân mến của văn nghệ sĩ Việt Nam" và mời đến nói chuyện tại Nhà hát Lớn trong ngày nghỉ của đại hội (chủ nhật 24/2/1957), với đầu đề: "Phấn đấu cho một nền văn nghệ dân tộc dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội"; trong bài nói chuyện này có những đoạn nhận định và lên án Nhân văn – Giai phẩm rất gay gắt; văn bản bài nói chuyện này của Trường Chinh, khoảng 4-5 tháng sau mới được công bố (trên 2 kỳ đầu Tạp chí Văn nghệ, cơ quan của Hội LHVHNTVN, xuất bản từ tháng 6/1957). (8)   
***
3b. Suốt thời gian kể trên, từ 1/8/1956 đến đại hội văn nghệ toàn quốc lần 2, Xuân Diệu hầu như ít đăng đàn; ông rất ít đăng thơ, hình như chỉ một lần, với bài Gieo mùa ở báo Văn nghệ số Tết Đinh Dậu (số kép 156&157, ra ngày 18/1/1957); loại ông viết nhiều hơn ở thời gian này là một số bút ký hoặc giới thiệu, điểm sách, chẳng hạn, bút ký Những tâm hồn đổi mới (báo Độc lập, s. 152, ngày 14/1/1956) viết về trường đại học nhân dân, mở cho giới trí thức từng sống và làm việc dưới chế độ cũ trong thành Hà Nội thời tạm chiếm; bút ký Thăm một làng miền bắc Hung-ga-ri (Nhân dân, 30/3/1956), bút ký Một thành phố xã hội chủ nghĩa ở Hung (tạp chí Tổ quốc, s. 32, ngày 5/4/1956), bút ký Cảm tưởng Mat-scơ-va (Nhân dân, 10/11/1956), bút ký Mùa xuân thắng (Nhân dân, 3/2/1957), giới thiệu Vài hình ảnh văn học Hung-ga-ry (Văn nghệ số 115, ngày 5/4/1956), đọc sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (Văn nghệ số 121, ngày 17/5/1956), giới thiệu và dịch thơ Nazim Hitmet (Văn nghệ số 150, ngày 7/12/1956), đưa tin về hội nghị các nhà văn châu Á (Văn nghệ số 153, ngày 27/12/1956). Đáng kể nhất có lẽ là lần Xuân Diệu xuất hiện trên diễn đàn Đại hội Văn nghệ ở ngày họp thứ sáu, 26/2/1957, với tham luận về bệnh sơ lược trong văn nghệ (trích đăng Văn nghệ số 162, ngày 1/3/1957). Tại đại hội này, Xuân Diệu là một trong số 15 nhà văn (Nguyễn Văn Bổng, Hồ Dzếnh, Vân Đài, Bảo Định Giang, Nguyễn Công Hoan, Tố Hữu, Đặng Thai Mai, Tú Mỡ, Hoàng Ngọc Phách, Võ Huy Tâm, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân,  Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, Trần Hữu Thung), cùng với nhiều văn nghệ sĩ thuộc các ngành khác, được bầu vào BCH Hội Liên hiệp VHNTVN.
Xin dừng lại đôi chút ở bài tham luận của Xuân Diệu; đây là lần duy nhất ông bộc lộ ý kiến trong suốt thời gian trên dưới nửa năm (tháng 8/1956 – tháng 2/1957), giữa một đời sống văn nghệ sôi động, đầy những va chạm về tư tưởng và quan niệm văn nghệ.
Về căn bệnh trong sáng tác đang được nêu ra và phân tích, Xuân Diệu cho rằng:
 
"Những tác phẩm mắc bệnh sơ lược gây tai hại là làm cho người ta hiểu sai thực tế, tưởng cách mạng là toàn hồng, gây bệnh chủ quan và thiếu lý tưởng".
Song, theo Xuân Diệu:
 
"bệnh sơ lược không ở trong bản chất nền văn học mới chúng ta",
… "chúng ta không độc quyền về bệnh sơ lược. Văn dở thì cổ kim đông tây, đời nào và ở đâu cũng có".
… "Số người quy bệnh sơ lược cho Đảng và cho chế độ cũng thường trách Đảng và chế độ sinh ra bệnh công thức. Họ nói đến những con người máy, những con người rập khuôn do chế độ ta sinh ra. Theo tôi nhớ, thì luận điệu này, bọn tư bản và đế quốc đưa ra đã lâu lắm rồi…"
Xuân Diệu nói đến những cái mà nhiều người gọi là "khuôn" trong đời sống mới:
"Những con người máy đã phá kho bom Tân Sơn Nhất chăng?(9) Bế Văn Đàn đã hy sinh rập khuôn với Phan Đình Giót chăng? Hay là trong phe XHCN, liệt sĩ Việt Nam Phan Đình Giót đã rập khuôn với anh hùng Liên Xô Matrosov, cũng lấy mình lấp lỗ châu mai một cách công thức chăng? Vâng, chúng ta rất giống nhau, chúng ta người nào cũng được Đảng giáo dục yêu nước yêu dân, cũng được Đảng dặn dò: khi cần thiết thì hy sinh quyền lợi cá nhân cho cho quyền lợi dân tộc, […..] Vâng! Nếu có một cái khuôn nào, thì đó là một cái khuôn cao cả vĩ đại, phong phú, cái khuôn con người mới biết tự cường, chiến đấu, hy sinh!"
Đối với những cái "sáo" hình thành trong văn nghệ cách mạng, thái độ của Xuân Diệu là bảo vệ:
 
"Bệnh công thức của ta rất đáng ghét, nhưng động cơ của nó là muốn nói cái mới cái hay, chỉ vì thiếu nghiên cứu, thiếu sáng tạo mà rơi vào chỗ sáo, ít nhất là nó có hảo ý; chứ còn cái công thức cuả tư sản phản động, của văn hoá Mỹ thì ác ý và ghê tởm vô cùng…"
 
"Chúng ta chống và chữa những bệnh ấu trĩ của nền văn nghệ non trẻ của chúng ta, nhưng chúng ta cũng khẳng định rằng: không có chân trời mới nào hết ngoài cái văn nghệ xã hội chủ nghĩa của phe ta và cái văn nghệ tiến bộ của thế giới; chúng ta không đi tìm hang sâu vực thẳm nào khác!"   
Về cách chữa bệnh sơ lược, Xuân Diệu cho là có "cách chữa chân chính" và  "cách chữa giả tạo", cách thứ hai này, ông chống kịch liệt:
"Cách chữa giả tạo là dựa vào hình thức, vào kỹ thuật, tránh sự tẻ nhạt bằng cách bịa ra những trò chơi quái ác, bằng cách bẻ quặt thực tế khách quan [….] Chữa giả tạo bằng cách quá đề cao cá tính siêu nhân của người văn nghệ; bằng cách đem "tiếng sáo tiền kiếp" ra thổi giữa những bản đàn của thời đại mà mình cho là chán. Bằng cách phục hồi nguyên xi những ý tình cũ kỹ đã bị cách mạng thải ra. Chữa giả tạo trên hình thức  bằng cách làm thơ leo thang hay xuống dốc, cắt nát câu thơ ra và xuống dòng nhiều quá sự cần thiết…"
Cách chữa chân chính, theo Xuân Diệu, là "nghiên cứu sâu thực tế cách mạng", vì "cái mới căn bản nằm trong đời sống cách mạng", "ta phải nói được cái mới căn bản đó, chứ không phải rơi vào một thứ 'mới chủ nghĩa', đi tìm những cá tính lập dị nào".  
"Tôi tưởng tượng rằng: nếu bà Thị Điểm mà sống lại và viết một bản Chinh phụ ngâm mới về phong trào hoà bình thế giới hiện nay, thì Hồng Hà nữ sĩ cũng phải nghiên cứu đời sống quần chúng đau khổ gây ra bởi chiến tranh đế quốc. Nếu Nguyễn Du còn sống và muốn viết về cuộc đấu tranh và lao động hiện tại của nhân dân ta, Nguyễn Du cũng tự nguyện đặt mình dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, và cũng phải thâm nhập vào quần chúng hiện tại!"
Đọc lại những lời lẽ trên đây, không khó để thấy thành phần nghị luận chủ yếu trong đó là ngụy biện, tuy được phát ngôn một cách không kém nồng nhiệt nhưng vẫn là kết quả những suy tính kỹ lưỡng, − không nhiều suy tư về chân lý, nhưng chắc chắn là ngầm chứa rất nhiều suy tính về cách ứng xử, cách "diễn ngôn" (discours, như cách gọi sau này) ra sao để tồn tại; đối với tác giả Thơ thơ  đến lúc này thì vấn đề không chỉ là cần sống sót mà là cần được sống tốt, bất kể thời thế ra sao.
*** 
4a. Chúng ta tiếp tục dõi theo những nét chính trong đời sống văn nghệ từ đầu năm 1957, sau Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai. Đối với giới nhà văn, đây là một năm đáng nhớ với sự ra đời lần đầu tiên ở Việt Nam một hội mang tên Hội Nhà Văn Việt Nam với những cơ sở trực thuộc nó sẽ dần dần hình thành: câu lạc bộ, tờ tuần báo, nhà xuất bản, quỹ văn học …
 
Việc thành lập các hội chuyên ngành cho các giới: nhà văn, hoạ sĩ và nhà điêu khắc, nhạc sĩ, kiến trúc sư, nghệ sĩ sân khấu, nghệ sĩ điện ảnh, − là chủ trương được thông qua tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần II. Hội nhà văn được xúc tiến sớm nhất.
Tất nhiên đặt trong đời sống tinh thần ở miền Bắc đương thời, Hội liên hiệp văn học nghệ thuật VN hoặc Hội nhà văn VN và các hội chuyên ngành cùng loại, đều là những tổ chức được thành lập theo chủ trương của Đảng cầm quyền, đều là những hội được hưởng quy chế tương đương cơ quan nhà nước (biên chế và lương cán bộ nhân viên đều do nhà nước đảm bảo), − nói bằng ngôn ngữ của thời "hậu bao cấp" thì đó là những hội "quốc doanh", hội "độc quyền", hội "bao cấp"…   
Hội nghị thành lập Hội Nhà Văn Việt Nam họp từ ngày 1 đến ngày 4/4/1957, có 278 đại biểu tham dự, thảo luận và thông qua bản điều lệ trong đó nói rõ: "Trên cơ sở Cương lĩnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam đoàn kết mọi nhà văn yêu nước và tiến bộ, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, xu hướng chính trị, xu hướng nghệ thuật" (điều III).(10) Đại hội bầu ra ban chấp hành khoá đầu gồm 25 nhà văn, và nhất trí coi 25 nhà văn trong ban chấp hành này là những hội viên sáng lập và sau đấy sẽ bắt tay vào việc kết nạp hội viên vào Hội.(11)  25 nhà văn đó gồm: Nông Quốc Chấn, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đình Thi, Tú Mỡ, Anh Thơ, Mộng Sơn, Cầm Biêu, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Huy Tưởng, Hoàng Cầm, Sao Mai, Tố Hữu, Hoàng Tích Linh, Nguyên Hồng, Bửu Tiến, Xuân Diệu, Đoàn Giỏi, Phạm Huy Thông, Tế Hanh, Nam Trân, Vũ Tú Nam, Hoàng Trung Thông, Xuân Miễn, Tô Hoài, Nguyễn Tuân.
Ngày 10/4/1957, hội nghị BCH lần 1 cử ra ban thường vụ gồm: chủ tịch Hội: Nguyễn Công Hoan, phó chủ tịch: Tú Mỡ, tổng thư ký: Tô Hoài, phó tổng thư ký: Nguyễn Xuân Sanh, và 3 uỷ viên: Nguyên Hồng, Tế Hanh, Đoàn Giỏi.
Ngày 25 và 26/4/1957, hội nghị BCH lần 2 thông qua đề án xuất bản báo Văn và lập Nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tuần báo Văn  với Chủ nhiệm Nguyễn Công Hoan, Thư ký toà soạn Nguyên Hồng và 2 uỷ viên ban biên tập là Tú Mỡ và Tế Hanh. Nhà xuất bản Hội Nhà Văn với Giám đốc Tô Hoài và 3 uỷ viên ban biên tập: Hoàng Cầm, Đoàn Giỏi, Nguyễn Văn Mãi. Hội nghị này cũng quyết định lập ra ban kết nạp hội viên (trưởng: Tú Mỡ, phó: Nguyên Hồng, có một tiểu ban giúp việc), ban chế độ công tác sáng tác (trưởng: Nguyễn Công Hoan, phó: Nguyễn Xuân Sanh, có một số uỷ viên), ban nghiên cứu sáng tác (trưởng: Tô Hoài), ban văn học nước ngoài (trưởng: Nguyễn Xuân Sanh, uỷ viên: Nguyễn Tuân, Phạm Huy Thông). Ban thường vụ Hội quyết định lập cơ quan Hội, quy định biên chế cơ quan gồm một số nhà văn và một số cán bộ hành chính.
Tuần báo Văn xuất bản vào ngày thứ sáu hằng tuần, số 1 ra ngày 10/5/1957, và, − ngoài mong muốn và dự liệu của giới lãnh đạo văn nghệ hay chăng (hay vẫn nằm trong số những dự liệu ấy?), − chính tờ báo này đã làm nên một đoạn phiêu lưu nữa, như giọt nước không mấy to hoặc nặng, nhưng lại là giọt nước làm tràn ly: với nó và sau nó, sự đấu tranh giữa những khác biệt trong nội bộ nền "văn nghệ cách mạng" này được công nhiên chuyển thành đấu tranh giữa "ta" với "địch", một số "đồng chí" trong hàng ngũ được chuyển thành những "kẻ thù" và bị trừng phạt, bị trục xuất khỏi hàng ngũ, bị làm cho ô nhục bằng ngôn từ và bằng áp đặt sự phân biệt đối xử.
Ta hãy quan sát kỹ hơn những gì xảy ra với tuần báo Văn.
Văn là tuần báo ra ngày thứ sáu, chuyên về "sáng tác, phê bình, giới thiệu, sinh hoạt văn học, tin văn thơ". Thành phần bài vở chính trong mỗi số là đăng sáng tác thơ văn, phê bình tiểu luận, chuyện nghề văn, thời sự văn hóa văn nghệ; một phương diện phục vụ chính trị không thể thiếu của báo là mảng hoạt kê và châm biếm chính trị: tranh đả kích, thơ trào phúng trong các mục "mũi nhọn", "bia miệng", đối tượng luôn luôn là "đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm".
Văn có nét thông thường ở hầu hết các tờ báo của giới nhà văn: phần trang nhiều nhất dành đăng sáng tác thơ văn, dư luận văn nghệ. Có lẽ nét mới thấy rõ ở nó so với tuần báo Văn nghệ  trước đấy là việc phản ánh sinh hoạt câu lạc bộ Hội nhà văn, hoặc những thông tin khá hồ hởi xung quanh những ngày đầu hoạt động của Hội nhà văn, nhất là những động thái triển khai việc xét kết nạp hội viên đợt đầu tiên…
Tuy nhiên, vào lúc đã ra được 10 số đầu, tờ tuần báo của Hội Nhà văn như bị dội nước lạnh khi trên tạp chí Học tập, cơ quan lý luận chính trị của trung ương Đảng Lao động VN, số 7/1957, xuất hiện bàiTuần báo Văn và con người thời đại  của tác giả Thế Toàn (Trịnh Xuân An), theo đó, những sáng tác đăng tải trên 10 số Văn đầu tiên được đánh giá khá tiêu cực: chủ đề của nhiều văn, thơ đăng ở đây "toàn là những thứ lượm lặt ngoài rìa cuộc sống", "không ăn nhập gì với cuộc sống, không dính dáng gì đến những con người vĩ đại và dũng cảm của thời đại chúng ta"; tóm lại, theo Thế Toàn, "Tờ báo hầu như xa rời thực tế, xa rời cuộc sống, tách rời những nhiệm vụ trung tâm của cách mạng".    
Trước sự phê bình của tạp chí Học tập, ban biên tập tuần báo Văn  và không ít nhà văn đã có phản ứng khá gay gắt. Lần lượt, các ý kiến của thư ký tòa soạn Nguyên Hồng (Tuần báo Văn và một số bài của báo cần được nhận định như thế nào? // Văn số 15, ngày 16/8/1957), của Nguyễn Văn Bổng (Nhận lại phương hướng qua việc phê bình tuần báo Văn // Văn số 20, ngày 20/9/1957), Lê Minh (Xây dựng con người thời đại // Văn số 21, ngày 27/9/1957), Tô Hoài (Góp thêm vài ý kiến về con người thời đại // Văn số 22, ngày 4/10/1957), Nguyễn Tuân (Phê bình nhất định là khó // Văn số 23, ngày 11/10/1957), Tế Hanh (Cùng đặt một số vấn đề // Văn số 26, ngày 1/11/1957), ở những mức độ khác nhau, hầu hết (đúng ra, trừ một số ý trong bài của Nguyễn Văn Bổng) đều bộc lộ thái độ không tán đồng sự phê bình của tạp chí Học tập.
Việc những người chủ trì báo Văn coi sự góp ý của tạp chí Học tập chỉ như sự phê bình của tờ "báo bạn", của "đồng nghiệp" − có lẽ đặc biệt gây tự ái nơi tâm lý những người nhân danh báo chí của Đảng cầm quyền. Dưới dạng một bài đọc sách, − đây là bài nói chuyện của Trường Chinh tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần II được in thành sách riêng, − hai nhà báo của tạp chí Học tập, Hồng Chương và Trịnh Xuân An, lên tiếng nhắc nhở các nhà văn và Ban biên tập tuần báo Văn; nhan đề bài viết (Học tập, số 8, tháng 8/1957) được hai ông này đặt bằng mệnh lệnh thức: Phải thấu suốt đường lối văn nghệ của Đảng. Bút ký sau khi đọc cuốn "Phấn đấu cho một nền văn nghệ dân tộc phong phú dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội" của đồng chí Trường Chinh, trong đó đặc biệt nhấn mạnh việc cần phê phán ảnh hưởng của tư tưởng tư sản trong sáng tác văn nghệ. Ý nghĩa cảnh cáo lộ rõ trong đoạn kết:
"Chúng ta cần kiên quyết đấu tranh chống những thiên hướng lệch lạc đi trệch ra ngoài đường lối văn nghệ của Đảng. Chúng ta cũng kiên quyết phản đối thái độ của một số cán bộ đảng viên phụ trách văn nghệ phạm khuyết điểm sai lầm được báo chí Đảng giúp đỡ phát hiện khuyết điểm sai lầm mà không chịu khiêm tốn kiểm điểm và thành tâm sửa chữa, trái lại, lại đả kích và mạt sát báo chí Đảng. Thái độ đó rõ ràng là không lợi cho việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn nghệ."
Nhận xét về cách phê bình của hai ký giả trên tạp chí Học tập, Nguyễn Tuân (báo Văn số 23) nhắc lại mấy câu hỏi của Nguyên Hồng (thư ký tòa soạn báo "Văn" ): "Có phải vì giáo điều, sơ lược, công thức, nên mới có sự nhận thức và phê phán như thế? Có phải vì tác phong quan liêu, trịch thượng và cái lối đao to búa lớn nên mới có sự nhận xét như thế?", và Nguyễn Tuân tỏ rõ ý kiến mình:
"Trong việc đánh giá, đặc biệt nhất là ba ông Thế Toàn, Hồng Chương và Trịnh Xuân An đã có những "thái độ trịch thượng và cái lối nói đao to búa lớn". Tôi cũng đồng ý với ông thư ký tòa soạn báo Văn về cái nhận xét này. Thêm nữa, cá nhân tôi lại còn cảm thấy mấy ông đó đã làm cho người đọc phải hiểu rằng các ông đang lấy Đảng ra để "dọa" anh em viết bài báo".
Đáp lại sự nhận xét trịch thượng cho rằng giới nhà văn chưa biểu hiện được "con người thời đại", Nguyễn Tuân lên tiếng như là tiếng nói chung của giới mình:
"Theo chỗ tôi biết thì đã có một số hiện tượng hách dịch đối với văn nghệ phẩm, xuất phát từ một số người phê bình cũng như từ một số cán bộ chính trị. Tôi rất đồng ý là văn nghệ sĩ, mà nhất là văn nghệ sĩ có tài, càng cần phải khiêm tốn. Nhưng chung quanh, nhất là những người có trách nhiệm về phán đoán cái này cái kia, đề nghị cũng làm như vậy cho. Tôi tán thành cái ý kiến là những "sĩ" của các ngành văn nghệ chúng ta chưa có gì là ghê gớm lắm đâu, về trình độ tư tưởng trình độ văn hóa trình độ nghề nghiệp còn phải học cho nát xương lòi da ra, học cho đến chết mà chắc gì đã nắm hết được quy luật của sự sống. Nhưng cũng không nên vì nó chỉ là "sĩ" của Việt Nam mà đánh giá nó quá thấp quá tồi về khả năng nhạy cảm đối với thực tế khách quan, cho nó là mít là xoài tất trong mọi cảm xúc phiền toái và vĩ đại của thời đại vừa gieo neo vừa lớn lao hiện nay của chúng ta. Trong mọi thực tiễn Việt Nam nói chung các mặt, nếu đã có những tác giả còn non nớt, nếu đã có những tác phẩm yếu xoàng, thì cũng đã có một số cán bộ thực hiện chính trị một cách cũng không được cao tay gì lắm. Đối với nghệ phẩm, anh đến với nó (nhất là thứ tạo ra ở bản xứ) mà anh tham lam quá đáng hoặc hung hăng một cách không cần thiết, thì nó biến mất…."  
 
Lúc này, đến lượt Tạp chí Văn nghệ vào cuộc. Tạp chí này, chủ nhiệm là Đặng Thai Mai, thư ký tòa soạn là Nguyễn Đình Thi, đã tái xuất hiện từ tháng 6/1957 với tư cách cơ quan của Hội Liên hiêp Văn học nghệ thuật Việt Nam, ra hàng tháng, đánh số từ số 1 nhưng ghi rõ trên manchette là tờ tạp chí "xuất bản từ 1948 trong kháng chiến". Chính trên tạp chí này, dù chỉ vừa mới xuất hiện trở lại, cũng đã kịp có những bài phê phán những sáng tác bị coi là có những lệch lạc về tư tưởng, ví dụ Thao thức của Đoàn Giỏi (bài phê bình của Nguyễn Văn Bổng, TCVN s. 5, th. 10/1957), Một ngày chủ nhật của Nguyễn Huy Tưởng (bài phê bình của Vũ Đức Phúc, TCVN s. 7, th. 12/1957).
Bài báo dài Tuần báo Văn với phương hướng sáng tác và phê bình hiện nay (Tạp chí Văn nghệ số 5, tháng 10/1957, tr. 113-136) của nhà phê bình Nguyễn Đình Thi, thư ký tòa soạn tạp chí Văn nghệ, tất nhiên là không tách rời tư cách Tổng thư ký Hội LHVHNTVN của ông khi đó (cũng như Nguyễn Tuân khi lên tiếng ủng hộ Nguyên Hồng thì ông Tuân vẫn đang là Phó chủ tịch Hội LHVHNTVN).
Có phần tán thành nhận định của Thế Toàn và Nguyễn Văn Bổng, đề cập đến các sáng tác đăng 10 số đầu báo Văn, Nguyễn Đình Thi cho rằng "Chúng ta chưa nhìn rõ cái thực tế tiến dần lên chủ nghĩa xã hội của đời sống chung quanh ta được báo Văn phản ánh lên thế nào" … "Tình hình đó không thể coi là bình thường được".  Nguyễn Đình Thi còn phân tích đánh giá về một số bài đăng trên các số Văn, trong đó đặc biệt tỏ rõ dị ứng với các bài thơ Một giọng đàn, một dòng sông (Hoàng Yến, s. 5), In dấu chân (Hoàng Cầm, s. 15), Lời mẹ dặn (Phùng Quán, s. 21), hoặc ý kiến của Trần Dần Nhìn lướt qua thơ văn gần đây (s. 12). Tuy vậy, cũng có phần chia sẻ với Nguyên Hồng trong phản ứng trước sự phê bình đầy công thức và máy móc của tạp chí "Học tập"; Nguyễn Đình Thi viết:
 "Nguyên Hồng phản ứng mạnh với cái khuynh hướng máy móc, giáo điều nó quan niệm con người mới trong văn học nghệ thuật như một thứ người gỗ, mà không hiểu nổi cái phức tạp phong phú của đời sống và tâm hồn con người, nó cũng không hiểu văn học nghệ thuật và không nắm được cái thực tế đang chuyển biến của sự sáng tác. Cái khuynh hướng cứng nhắc ấy, chúng ta đã phê phán nó khá nhiều trong thời gian vừa qua, nhưng không phải đã hết. Nó duy trì những bệnh sơ lược, khái niệm, những thái độ đơn giản và độc đoán trong vấn đề tư tưởng và nghệ thuật. Cái khuynh hướng máy móc đơn giản ấy đã có biểu hiện trong bài của Thế Toàn, rõ rệt nhất là trong những nhận xét của Thế Toàn về mấy bài như Phở, Gió, Bích-xu-ra, v.v… Và cái thái độ gò ép, áp đảo ấy cũng thấy trong một bài của Hồng Chương và Trịnh Xuân An tiếp theo bài của Thế Toàn trên tạp chí Học tập số 8. Tôi cho thái độ đó là không đúng".(12)
Chỉ tìm hiểu qua những gì đăng báo còn lại đến hôm nay thì hẳn là khó có thể biết hết những gì đã thực sự diễn ra trong đời sống thực của văn nghệ một thời đã qua. Nhưng người đang viết những dòng này chưa có thêm phương tiện gì khác hơn là tài liệu in công khai còn lại trên giấy báo. Dù sao cũng có thể thấy những thị uy và uốn nắn đối với tuần báo Văn đã không gây được hiệu quả cụ thể. Nói như Tế Hanh, trong số bài vở đăng trên tuần báo "Văn", "những bài Nguyễn Đình Thi cho tốt không phải ít hơn những bài xấu, kể cả trong 10 số đầu. Thế thì nên kết luận thế nào?"
Rất có thể vì vậy, tuần báo Văn cứ đi tiếp nhịp đi của mình. Trong số những tác phẩm được đăng trên tờ này sẽ có thêm khá nhiều những thảo luận về các vấn đề của thơ, thảo luận về việc nên hay không nên tái bản các tác phẩm ra đời trước cách mạng, sẽ đăng thơ của Xuân Diệu, Quang Dũng, Hữu Loan, Hoàng Trung Thông, Trần Dần, Lê Đạt…, văn của Nguyễn Huy Tưởng, Bùi Hiển, Hồ Dzếnh, Thụy An, Nguyễn Dậu, Trần Dũng Tiến,…, tiểu luận phê bình của Nguyễn Tuân, Trương Chính, Trần Thanh Mại, v.v…  Trong số những tác phẩm đăng lần đầu ở đây, sẽ được nhắc nhở sau này là các tác phẩm như thơ Hãy đi mãi (Trần Dần, s. 28, ngày 15/11/1957), Lời mẹ dặn (Phùng Quán, s. 21, ngày 27/9/1957), Bão (Tế Hanh, s. 32, ngày 13/12/1957), văn: Đống máy (Minh Hoàng, s. 34, ngày 27/12/1957), Ông Năm Chuột (Phan Khôi, s. 36, ngày 10/1/1958), là truyện dịch Phòng số 6 của Chékhov đăng liền hơn 10 số đầu, là các tiểu luận Nguyễn Tuân viết về văn Thạch Lam, về Kim tiền  của Vi Huyền Đắc, v.v…
Tất nhiên không khó để trừng trị những nhà văn cứng đầu ở tuần báo "Văn"; và trong việc này, tờ Học tập ra hàng tháng không thể thuận lợi so với tờ Nhân dân ra hàng ngày. Từ cuối tháng 11/1957, hàng loạt bài vở các loại từ tờ nhật báo lớn nhất miền Bắc lúc ấy chĩa mũi nhọn vào báo Văn. Ban đầu nhắm vào từng tác phẩm cụ thể, ví dụ thơ Lời mẹ dặn (bài của Trúc Chi, Nhân dân, 24/11/1957), tranh biếm họa "Phương pháp xây dựng văn nghệ" của Trần Duy (bài của Phượng Kim, Nhân dân 8/12/1957), truyện ngắn "Đống máy" (bài của Đặng Phò, Nhân dân 12/1/1957), gợi cho dư luận sự gắn nối "Văn" với "Nhân văn"  (Chiến Kỳ: Chặn ngay những quan điểm nghệ thuật của nhóm "Nhân văn" đang định sống lại trên báo "Văn", Quân đội nhân dân, 21/1 và 24/1/1958; Vũ Đức Phúc: Từ "Con người Trần Dần" đến "Đống máy", Nhân dân 2/2 và 3/2/1958). Lại còn mượn đến những tên tuổi nào đó, nói rằng đó là của "anh em ở miền Nam" (Một bức thư của anh em từ Sài Gòn gửi cho chúng ta: D. và T.: Chúng tôi không đồng ý với báo "Văn"/ Nhân dân 17/1 và 18/1/1958). Rồi tiến tới nhận định bao quát (bài của Như Phong: Góp ý kiến với các đồng chí có trách nhiệm ở báo "Văn"/ Nhân dân, 9/2, 10/2, 11/2 và 12/2/1958). Sau nữa là đăng tự kiểm điểm của một số "yếu nhân" của báo "Văn" dưới tiêu đề Các đồng chí ở báo "Văn" bắt đầu tự phê bình, lần lượt là Nguyên Hồng (Nhân dân 2/3/1958), Tô Hoài (Nhân dân 12/3/1958), Tế Hanh (Nhân dân 14/3/1958); lại nữa, không kiềm chế lời mạ lỵ nếu sự tự phê bình của họ chưa được coi là thành khẩn (câu viết sau đây cho thấy sự hạ nhục người bị phê bình:"trường hợp Nguyên Hồng, vì thái độ chưa thật thà thành khẩn và cũng vì trình độ nhận thức quá thấp nên mức tiếp thu rất hời hợt" − N.D., Để chuẩn bị một thời kỳ văn học nghệ thuật phát triển tươi tốt hơn nữa/ Nhân dân 9/3/1958).
Bên cạnh báo Nhân dân, tham gia phê bình báo "Văn" còn có nhiều báo khác: báo Quân đội nhân dân với các bài của Hồng Cương, Chiến Kỳ; báo Cứu quốc với các bài của Đông Hoài, Bùi Huy Phồn, Đặng Vũ Khiêu, Tú Mỡ, Nguyễn Mạnh Hào, Nguyễn Kiến Giang, v.v…; báo Tổ quốc với các bài của Ngô Linh Ngọc, Thiếu Khanh, Bảo Nguyên, Phi Trưởng, v.v…; báo Thống nhất với các bài của Trịnh Xuân An, Hồng Chương, Vũ Đức Phúc, Lê Xuân Vũ, v.v…
Trên thực tế, việc phê bình tuần báo "Văn" chuyển dần hòa dần vào đợt đấu tranh chống Nhân văn – Giai phẩm diễn ra liền sau đó.    
Ở tuần báo "Văn" số 37 (ngày 17/1/1958), tòa soạn có lời "kính gửi các bạn yêu quý của báo Văn", theo đó, "sau 8 tháng làm việc, báo Văn thấy cần phải kiểm điểm công tác trong thời gian qua, rút kinh nghiệm cho công việc mới, chấn chỉnh mọi mặt,… vì lẽ đó, báo sẽ nghỉ 2 kỳ …."  Trên thực tế, đấy chính là lời cáo chung của tờ tuần báo này; lời hẹn của báo về tờ "Văn" số tết cũng không thành sự thực vì BCH Hội nhà văn không cho phép thực hiện.(12b)
Ngày 6/1/1958, Bộ chính trị trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra nghị quyết Về việc chấn chỉnh công tác văn nghệ, phát động một chiến dịch đấu tranh tư tưởng "quét sạch tư tưởng "Nhân văn" là biểu hiện của tư tưởng thù địch về mặt chính trị, đồng thời cũng là biểu hiện nghiêm trọng của quan điểm văn nghệ tư sản".(13) Những đợt học tập tập trung dài ngày cho văn nghệ sĩ được tổ chức sau đó, − mà về sự việc này người ta chỉ được biết qua một vài hàng tin vắn trên một số tờ báo, − có thể đã là diễn trường chính của cuộc đấu tranh theo chủ trương nói trên; thật ra, người ta chỉ có thể biết đến chúng thông qua phần nổi là những phê phán rầm rộ trên báo chí miền Bắc từ khoảng giữa tháng 2/1958 đến tháng 6/1958.
 Sự phê phán, rủa sả và đấu tố rầm rộ này là sự tiếp tục những phê phán đã có từ vài năm trước, nhất là vào cuối năm 1956; song, suốt thời kỳ đó dù sao vẫn nằm trong quy ước của sự phê bình "trong nội bộ nhân dân", tức là ít nhiều còn tôn trọng đối tượng bị phê phán, thậm chí ít nhiều chấp nhận có ý kiến trao đổi qua lại. Nhưng đến lúc này, khi mà người ta đã tuyên bố gạt phía bị phê phán sang hàng ngũ kẻ thù thì chỉ còn sự biểu dương lực lượng của một phía: phía những người phê phán, với số lượng hết sức đông đảo. Trong hàng loạt những ý kiến bày tỏ một phẫn nộ đại chúng này rất khó thẩm định sự thật của những nội dung tố giác, dù nó hệ trọng đến đâu; sự kiện thấy được chỉ là sự tố giác.
Riêng ở giới văn nghệ, có thể hình dung cuộc phê phán này trên Tạp chí Văn nghệ các số 10 (tháng 3/1958), 11 (tháng 4/1958), 12 (tháng 5/1958), 13 (tháng 6/1958), mở đầu bằng bài của Đặng Thai Mai: Căn bản vẫn là vấn đề lập trường tư tưởng, và tạm kết bằng báo cáo của Tố Hữu đọc tại cuộc họp tổng kết hôm 5/6/1958. Trên các bài đấu tranh ấy, những thành viên bị coi là đầu sỏ của nhóm Nhân văn như Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Lê Đạt, Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Trần Duy, Thụy An, Trần Thiếu Bảo bị phê phán như đấu tố kẻ thù, những cây bút liên quan như Phùng Cung, Phùng Quán, Văn Cao, Hoàng Tích Linh, Đặng Đình Hưng, Trần Lê Văn, v. v… cũng không được đối xử tốt hơn.
Như đã biết, sau sự kiện này, Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Thiếu Bảo,(13b) Phùng Cung bị ngồi tù nhiều năm (có nguồn tin cho rằng những người bị tù này là thuộc một vụ án khác, không gắn trực tiếp với các hoạt động Nhân văn, Giai phẩm, song cho đến nay vẫn chưa có sự công khai hóa các tài liệu an ninh và tư pháp liên quan nên chưa thể xác nhận điều này). Riêng trong Hội nhà văn: 3 người gồm Trương Tửu, Thụy An, Phan Khôi "bị khai trừ hẳn ra khỏi hội"; 2 người gồm Trần Dần, Lê Đạt bị khai trừ khỏi hội trong thời hạn 3 năm; Hoàng Cầm bị khai trừ khỏi Ban chấp hành; Hoàng Tích Linh bị cảnh cáo và được rút khỏi Ban chấp hành; Trần Duy bị khai trừ (vĩnh viễn?) ra khỏi hội Mỹ thuật; Tử Phác, Đặng Đình Hưng bị khai trừ 3 năm ra khỏi hội Nhạc sỹ sáng tác; các hội viên khác từng tham gia các số Nhân văn và các tập Giai phẩm (các văn bản thường không nêu tên) bị cảnh cáo.(14) Tuy nhiên, những hình phạt mà ban đầu hoặc mang dạng án phạt của luật pháp, hoặc có khi chỉ là kỷ luật trong nội bộ đoàn thể (khai trừ, treo bút,…) kết hợp với xử lý hành chính (buộc cư trú xa thủ đô, bị theo dõi bí mật, buộc theo các nhóm văn nghệ sĩ đi lao động thực tế xuống các địa phương …) trong thực tế đời sống miền Bắc những năm về sau (1958-85) sẽ trở thành những trừng phạt vĩnh viễn về mặt xã hội và công dân. Ấy là chưa nói đến không ít những người khác, vốn không dính líu gì tới sự kiện này, về sau sẽ vô tình trở thành liên lụy, bị tù đày hoặc phân biệt đối xử.(15)
Một vài diễn biến bề sâu của cuộc đấu tranh ấy, từ khoảng những năm 1990 cũng đôi khi được hé lộ lẻ tẻ qua một vài hồi ức.
Sau đợt đấu tranh này, từ 25/5/1958, Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản báo Văn học với thư ký tòa soạn là Nguyễn Đình Thi (chức thư ký tòa soạn Tạp chí Văn nghệ từ tháng 6/1958 chuyển sang cho Hoài Thanh), tự coi là tờ báo hoàn toàn mới "với tinh thần mới và tên mới"; khẩu hiệu "Vì tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội" được gắn lên manchette tờ báo của Hội Nhà văn VN kể từ thời điểm ấy. Trong lời ra mắt của mình, báo Văn học tuyên bố rằng tuần báo Văn trước đây đã "bị tư tưởng Nhân văn lũng đoạn" nên đã xa rời đường lối văn nghệ của Đảng, rằng các trang báo Văn "đã bị hoen ố vì những bài của nhóm Nhân văn"  mà sự độc hại của chúng còn cần tiếp tục diệt trừ! Nghĩa là tuần báo Văn không xứng đáng để được kế tục!
Có lẽ, trong lịch sử các cơ quan báo chí của Hội Nhà văn Việt Nam, nếu hầu hết các cơ quan đều được vinh danh, thì chỉ có riêng tuần báo Văn là bị nguyền rủa ngay cả khi nó đã không còn tồn tại. 
 
4b. Bước vào năm 1957, ngòi bút Xuân Diệu hoạt động hăng hái hơn năm trước, với thiên hướng nghiêng hẳn về văn xuôi bút ký, tiểu luận. Bài bút ký Mùa xuân thắng đăng dịp tết (Nhân dân 3/2/1957), một bút ký chính luận, chất ký thua chất luận, in rõ nếp nghĩ của một người sống ở một phe nhìn vào cái thế giới hai phe đối đầu nhau, một người sống ở nửa nước chia cắt nhìn sang nửa nước bên kia theo tầm mắt chính thống của phía bên này, giữa thời chiến tranh lạnh, có lẽ báo trước điều đó.
Xuân Diệu đã dự hội nghị thành lập Hội nhà văn Việt Nam, đọc tham luận Vài ý kiến về vấn đề viết sự thật (đăng Nhân dân, 21/4/1957), được bầu vào ban chấp hành đầu tiên, và như vậy Xuân Diệu là một trong 25 hội viên sáng lập. Nhưng Xuân Diệu không tham gia ban biên tập tuần báo Văn, cũng không tham gia ban phụ trách nhà xuất bản Hội nhà văn. Ông có cộng tác gửi một số bài đăng tuần báo Văn, nhưng nơi ông cộng tác chặt chẽ hơn lại là Tạp chí Văn nghệ của trung ương Hội LHVHNTVN mà Tổng thư ký Hội LHVHNTVN Nguyễn Đình Thi kiêm chức Thư ký tòa soạn, bắt đầu hoạt động chỉ sau tuần báo Văn khoảng nửa tháng.   
Trong năm mới này ông vẫn có ít thơ đăng báo, trên tuần báo Văn hầu như chỉ thấy 3 bài: Gió (s. 3), Chuyên chính (s. 26), Hỏi (s. 32) trong đó Chuyên chính là bài thơ nghị luận (… Mặc những kêu rêu lá rụng hoa tàn / Tôi thẳng thắn ngợi ca nền chuyên chính!); trên Tạp chí Văn nghệ cũng thấy có các bài Gửi sông Hiền Lương (s. 2, th. 7/1957), Đi với giòng người (s. 9, th. 2/1958). Một bài như Lệ (Nhân dân, 3/11/1957) có lời đề từ "Tặng Cách mạng tháng Tám và Cách mạng tháng Mười" cho thấy rõ cái tứ chính luận của nó. Trên tờ Văn học mà Hội Nhà văn Việt Nam mới lập ra từ 25/5/1958, Xuân Diệu đã kịp đăng thơ sáng tác (Bia Việt Nam, s. 12, ngày 15/9/58) hoặc thơ dịch (Người vô sản, dịch thơ Ch. Smirnenski, nhà thơ Bulgary, s. 16, ngày 25/10/58). Nhưng chiếm số lượng nhiều nhất trong thời gian này vẫn là các bài bút ký, tiểu luận.
Xin kể các bài chính.
Vài ý kiến về vấn đề viết sự thật (Nhân dân, 21/4/1957),
Tuyển tập "Thơ Việt Nam" đối với phong trào thơ (Tạp chí Văn nghệ, s. 1, th. 6/1957),  
Mùa đông 1919, mùa hè 1957 (Văn, s. 8, ngày 28/6/1957),
Nguyễn Trãi, nhà thơ mở đầu nền văn học cổ điển Việt Nam (Tạp chí Văn nghệ, s. 3, th. 8/1957; bài này đứng tên chung với Huy Cận),
Cảm tình với Ấn Độ (bút ký, Nhân dân, 14/9/1957),
Thế nào là cái mới (Tạp chí Văn nghệ, s. 4, th. 9/1957),
Những bước đường tư tưởng của tôi (Tạp chí Văn nghệ, s. 6, th. 11/1957),
Nhà thi hào Pháp A-ra-gông sáu mươi tuổi (Tạp chí Văn nghệ, s. 7, th. 12/1957),
Cái mới của văn học chúng ta (Tạp chí Văn nghệ, s. 8, th. 1/1958),
Một số vấn đề đấu tranh tư tưởng trong thơ (Tạp chí Văn nghệ, s. 10, th. 3/1958),
Những biến hóa của chủ nghĩa cá nhân tư sản qua thơ Lê Đạt (Tạp chí Văn nghệ, s. 13, th. 6/1958),
Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao (Tạp chí Văn nghệ, s. 14, th. 7/1958),
13 tuổi Tiếng nói Việt Nam (Tạp chí Văn nghệ, s. 17, th. 9/1958).
Kỷ niệm nhà thơ thiên tài dân tộc Nguyễn Du (nói chuyện tại Nhà hát Lớn Hà Nội ngày 26/9/1958 trong lễ kỷ niệm 138 năm ngày mất Nguyễn Du; đăng Tạp chí Văn nghệ, s. 18, tháng 11/1958)
Phần lớn các bài viết này đến giữa năm 1958 sẽ được in thành cuốn Những bước đường tư tưởng của tôi (tiểu luận phê bình văn học của Xuân Diệu, Nxb. Văn hóa, 159 tr. 13x19cm; in xong ngày 8/5/1958), nằm trong loại sách thời sự, phục vụ cuộc đấu tranh tư tưởng thời gian ấy.
Hãy đọc lướt những điều được đề cập trong loạt bài này.
Vài ý kiến về vấn đề viết sự thật là tham luận tại hội nghị thành lập Hội nhà văn.
"Chúng ta nói những sự thật là có một mục đích, mục đích làm công tác tư tưởng bằng văn học, nên ta không phải là một người cầm cái máy ảnh tốt rồi bạ cái gì cũng chụp ảnh, cũng in ra. Chúng ta không hoàn toàn đi theo cái chủ nghĩa thành thật, vì chủ nghĩa đó chỉ đúng có một nửa. Nhất định những thơ văn nào chúng ta viết ra đều là máu là huyết của ta, đều là thiết tha, thành thật, mà có thiết tha thành thật thì mới hay được. Nhưng không phải những tình cảm nào thiết tha thành thật đều nên đưa vào thơ văn."
Vì sao vậy? Vì, theo Xuân Diệu, nhà văn không chỉ cần phải là "kỹ sư tâm hồn" mà còn cần phải là "bác sĩ tâm hồn" nữa, cho nên không được để những buồn rầu, tan rã trong hồn mình lây nhiễm sang người đọc.
"Nhà văn hiện nay nên phát hiện nhiều vấn đề mới; nhưng nêu vấn đề ra, nếu chưa giải quyết dứt khoát được, thì ít nhất cũng bao hàm một hướng giải quyết, một thái độ giải quyết. Nếu chỉ nêu vấn đề rồi vứt giữa xã hội thì chỉ tổ gây hoang mang. Vào trong xã hội mà chỉ tin ở sự thành thật theo cảm tính của mình, thậm chí cố tình không mang theo những thứ mà mình cho là tầm thường, như lập trường, như đảng tính, v.v…, thì càng tưởng rằng viết theo sự thật lại càng sai lạc."
Trong một bài rất ngắn, Xuân Diệu đã làm bật được một số ý niệm vốn là chủ trương của cấp trên, lại kết hợp liên hệ phê bình được tư tưởng của Nguyễn Tuân "nhà văn chỉ cần nêu vấn đề", "nhà văn có thể là bác sĩ gọi ra bệnh của bệnh nhân, không nhất thiết phải kê đơn bốc thuốc", mỉa mai được "tiếng sáo tiền kiếp" của Trần Duy, đả kích được Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, chê trách được Một trò chơi nguy hiểm của Nguyễn Thành Long, − những hiện tượng do những người khác phát giác và đã trở thành đối tượng phê phán chung.
Tuyển tập "Thơ Việt Nam" đối với phong trào thơ  là bài nhận xét tuyển tập "Thơ Việt Nam 1945-56"; cách làm của ban tuyển thơ này dựa vào đơn vị tác giả, theo Xuân Diệu nhận định, là không hợp với sự phát triển thơ ca thời kỳ 1945-1956; vì thế ông cho cuốn tuyển này không phản ánh được phong trào thơ của quần chúng, theo ông, là nét nổi trội của thơ Việt Nam thời kỳ 1945-56.
         
"Ban làm tuyển tập cố nhấn mạnh vào các tài tử đơn ca, trong khi đơn ca chưa nổi bật, mà cái hay, cái đặc điểm của phong trào thì lại là một cuộc hòa tấu phong phú hơn nhiều. Tuyển tập "Thơ Việt Nam" là một cái gương chưa thật đúng và bẻ một nửa của phong trào thơ."
Xuân Diệu dẫn khá nhiều thơ ca ngoài tuyển tập trên để cho thấy là đừng nên vướng vì quan niệm 'tác giả' như ban tuyển này đã mắc, mà nên lấy trọng tâm  là phản ánh phong trào thơ; thậm chí ông đưa ra một ý tưởng cực đoan về cách làm tuyển thơ:
"Đến việc sắp xếp các người thơ, tưởng không nên xếp theo a,b,c, mời họ ngồi bàn tròn như thế. Làm như vậy cầu an, tắc trách. Mà phải cố gắng xếp các bài thơ và tác giả theo khuynh hướng, theo thời kỳ, theo nội dung…."
Sau cuốn tuyển mà Xuân Diệu điểm sách như trên, người ta biết,"Tuyển tập thơ Việt Nam 1945-1960" (Hà Nội: Nxb. Văn học, 1960) mà Xuân Diệu tham gia tuyển chọn và chính ông viết lời nói đầu, thì thơ trong tuyển ấy vẫn sắp xếp theo thứ tự a,b,c tên tác giả. Như thế, những đề xuất Xuân Diệu nêu ra ở bài này, in ra vào năm 1957, có lẽ chỉ là một ý thoáng qua nhằm thỏa mãn cái tư tưởng thời thượng vốn đề cao các từ ngữ "quần chúng", "công nông binh", cốt nói sao cho gây được ấn tượng, chứ không phải ý kiến có giá trị chỉ dẫn thao tác làm sách tuyển thơ thực sự.
Mùa đông 1919, mùa hè 1957 là bài dịch đồng thời nói về việc dịch thơ Maiakovski; tựu trung là: bài Mùa đông 1919 của nhà thơ Nga được Xuân Diệu dịch vào mùa hè 1957, thế thôi. Nhưng đây là chỗ để Xuân Diệu phê phán Trần Dần, Lê Đạt. Ông lên lớp Trần Dần:
 
"Nếu Mai-a sống ở đất nước Việt Nam khi hòa bình vừa lập lại, khi khu vực ba trăm ngày quân Pháp chưa rút hết, còn đóng sát nách tại Hải Phòng, tôi quả quyết rằng, giả sử như Mai-a có trong hoàn cảnh chưa tìm được việc cho vợ làm, cũng không bao giờ Mai-a nỡ như Trần Dần, hạ những câu:
                    Tôi bước đi
                              không thấy phố
                                                  không thấy nhà
                    Chỉ thấy mưa sa
                                        trên màu cờ đỏ
Những câu thơ như vậy học tập Mai-a-kốp-ski ở chỗ nào?"
Và Xuân Diệu nhắc nhở cả Trần Dần, Lê Đạt lẫn số đông người làm thơ:
         
"Vâng, không nên học tập Mai-a-kốp-ski một cách giáo điều! Mà trước tiên, phải học cái hồn thơ, cái lòng yêu nước, cái lập trường cách mạng không gì lay chuyển nổi của Mai-a-kốp-ski"
Ông nhắc lại lời K. Simonov:
 
"Truyền thống của Mai-a-kốp-ski không phải là ở chỗ bài thơ Lê-nin hoặc bài thơ Được! [có lẽ định nói đến bài Tốt lắm − LNA chú] viết bằng lối 'leo thang' hay không 'leo thang', mà là ở chỗ Mai-a-kốp-ski đã viết bài thơ về Lê-nin, về Đảng và Tổ quốc!"
Thế nào là cái mới thực chất là bài trao đổi với quan niệm nghệ thuật của Văn Cao, từng được tác giả này bộc lộ trong bài Một vài ý nghĩ về thơ (Tạp chí Văn nghệ, s. 3, th. 8/1957). Ý tưởng của Văn Cao "chủ động thành lập nên sự thẩm mỹ mới", theo sự phân tích vòng vo của Xuân Diệu, chứa đựng cái "tự huyễn diệu của sự kiêu căng cá nhân"; tình cảm của Văn Cao "Yêu những người biết thất bại mà dám mở đường", được Xuân Diệu khuyên nhủ là đừng mở đường liều, đừng "anh hùng chủ nghĩa rẻ tiền mà ta không dung thứ"! Điều được Xuân Diệu cho in nghiêng để nhấn mạnh là câu khẳng định sẽ mau chóng biến thành công thức như sau:
         
"Cái mới vô cùng, không văn nghệ cũ nào, không văn nghệ tư sản nào bì nổi, của văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa chúng ta, là đấu tranh cho Đảng kiểu mới, chính quyền kiểu mới, con người kiểu mới, và lao động kiểu mới."
 − Những bước đường tư tưởng của tôi là một bản tự kiểm thảo về nhân sinh quan và thẩm mỹ quan của tác giả Thơ thơ, Gửi hương cho gió… Thật ra thì từ năm 1953 ở Việt Bắc kháng chiến, Xuân Diệu đã có một lần dự chỉnh huấn và làm kiểm thảo (xem bài văn xuôi Dứt khoát và bài thơ Trước đây bốn tháng của Xuân Diệu đăng tạp chí Văn nghệ số 41, tháng 7/1953, số về chỉnh huấn) nên, có thể nói, Xuân Diệu đã biết phép ứng xử. Là người đã thành danh trong văn chương tiền chiến, Xuân Diệu có "thi pháp" kiểm thảo riêng, tựu trung là nói cho thật đậm hai ý, một là "chúng tôi" đã ngụp lặn quá sâu vào vũng bùn nghệ thuật tư sản, rất khó sửa chữa, trước ma lực của hào quang cá nhân chủ nghĩa, chúng tôi rất dễ bỏ con đường sáng, "lại tìm những chốn đoạn trường mà đi"; hai là ơn của Đảng đối với chúng tôi là ơn cứu mạng, "càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông", tình cảm chúng tôi với Đảng là "từ phen đá biết tuổi vàng, tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ"! Nhưng cái phía láu cá tự biện hộ của Xuân Diệu thì không qua được con mắt bạn văn đương thời; chẳng hạn, đây là nhận xét ngay trong năm 1958 của Nguyễn Bao: "Thực ra cách mạng đã cứu vớt cái tôi của Xuân Diệu khỏi chết chìm chứ không phải là cái tôi ấy đủ sức mà bơi tới cách mạng. Qua sự trình bày ấy ta thấy Xuân Diệu chưa nhận rõ được mọi cạnh khía tinh vi của cái tôi cũ và ở một điểm nào đấy còn bào chữa cho nó nữa!" (16)
 − Cái mới của văn học chúng ta thảo luận với đồng nghiệp quanh câu hỏi: vì sao văn học cách mạng chưa có tác phẩm lớn? Theo Xuân Diệu, lý do là "Các nhà văn thời đại của ta chưa chín, và vì thế, các tác phẩm của ta chưa chín". Lớp nhà văn cũ thì đang tiếp tục tự cải tạo mình để thành nhà văn mới, tức là chưa chín; lớp nhà văn vào nghề cùng với cách mạng thì còn đang cần học tập nhiều về nghề nghiệp, tức là tài năng chưa chín; còn lớp nhà văn sẽ xuất hiện trong chế độ mới thì "họ lại thuộc những giai cấp từ xưa chưa bao giờ được rèn luyện để viết văn", đào tạo họ thành nhà văn sẽ tốn nhiều thời gian hơn.
Một phần đáng kể của bài này, Xuân Diệu giành để thảo luận với ý kiến Nguyễn Tuân trong lời nói đầu tập truyện dịch của Sê-khốp. Xuân Diệu không chỉ nhắc lại cái quan niệm đã hơn một lần ông đem bàn với Nguyễn Tuân: nhà văn cần phải như người bác sĩ, "gọi ra được bệnh và đề ra được cách chữa, ít nhất là hướng chữa", chứ không thể chỉ gọi ra bệnh mà thôi.
 
"Nhà văn ta có thể đặt vấn đề có tệ quan liêu, chứ không thể đặt vấn đề chính quyền dân chủ nhân dân là một bộ máy quan liêu, có thể hỏi là: Đảng làm thế nào lãnh đạo văn nghệ cho tốt?, chứ không thể hỏi là: Đảng có thể lãnh đạo văn nghệ được không? Nghĩa là nhà văn có thể đặt những vấn đề ra để cho nhân dân càng tăng cường cảnh giác, càng tự nghiêm khắc với những tệ lậu còn lại, càng thấy làm cách mạng không phải là đi ngao du, v.v… chứ không phải là buông thõng ra rất nhiều câu hỏi đặt rất sai để gieo rắc hoang mang vào quần chúng!"  
Với những nỗ lực như trên này, có thể thấy vào thời điểm này nhà thơ đang góp phần đặt ra những quan niệm quy phạm nhằm thu hẹp quyền nhận xét và suy nghĩ về đời sống thực tế đương thời của giới văn nghệ sĩ và trí thức nói chung. Có lẽ, qua trường hợp Xuân Diệu, người ta lại thấy rõ, mỗi hạn chế, mỗi trói buộc mà ba chục năm sau mới được thừa nhận, đã định hình theo cung cách như thế nào, và lịch sử của sự đánh mất tự do cũng đồng thời là lịch sử của sự tự nguyện từ bỏ từng phần tự do ra sao.
Xuân Diệu còn giành một phần nữa của bài này để thuyết phục Nguyễn Tuân: không nên xem Sê-khốp như mẫu mực mà phải thấy Sê-khốp chỉ dừng lại ở hiện thực phê bình, không hữu ích bằng Gorki với Người mẹ, tức là Gorki đã đi tới hiện thực xã hội chủ nghĩa, đi xa hơn Sê-khốp! Cố nhiên, đây là điều không chỉ để nói với Nguyễn Tuân mà chủ yếu là điều cần khẳng định như một định đề lớn về nền nghệ thuật mới, lớn lao, đang được xây dựng.    
 
Một số vấn đề đấu tranh tư tưởng trong thơ  là bài báo được công bố khi các hiện tượng Nhân văn, Giai phẩm đã được tuyên bố công nhiên trên công luận như là hoạt động chống Đảng chống chế độ, khi những người tham gia các ấn phẩm đó đã bị tuyên bố là kẻ thù ở bên kia chiến tuyến. Bài này của Xuân Diệu và các bài khác của ông như Những suy nghĩ chung quanh vấn đề chỉnh huấn, Những biến hóa của chủ nghĩa cá nhân tư sản qua thơ Lê Đạt, Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao, − đều thuộc phần đóng góp của Xuân Diệu vào đợt tổng công kích Nhân văn – Giai phẩm, diễn ra trên nhiều tờ báo ở miền Bắc trong quý II/1958.
Bằng vào loạt bài viết này của Xuân Diệu, có thể dự đoán rằng, trong cuộc tổng  công kích này, Xuân Diệu được phân công, − hay là ông tự chọn lấy cũng vậy, − mấy mục tiêu chính: khu vực thơ như một chiến trận tư tưởng, với các cứ điểm cần công kích là Lê Đạt, Văn Cao, bên cạnh đó là Nguyễn Tuân với tùy bút Phở  và với quan niệm bị coi là sai lầm nghiêm trọng: coi viết văn giống như bác sĩ, chỉ cần gọi ra đúng bệnh, không cần kê đơn bốc thuốc.
 
Phải sòng phẳng nhận rằng, Xuân Diệu đã tham dự cuộc tấn công này một cách hết sức hăng hái. Ông không phải người phát hiện nhưng là người phác họa lại rõ nét "một luồng thơ chống Đảng, chống chế độ", là người đã đem tất cả uy tín của một nhà "thơ mới" hàng đầu hồi những năm 1940 để kết tội những cây bút  vào giữa những năm 1950, theo ông nhận xét, đã "cố nặn ra một chất thơ ác, đập vào giác quan bằng mọi cách, cố giật gân người đọc như Trần Dần, huênh hoang như Lê Đạt, trá hình nhiều cách lập lờ giả trá như Hoàng Cầm".
Xuân Diệu dành cho hai tác giả Lê Đạt và Văn Cao mỗi người một bài viết riêng. Nếu bài về Lê Đạt thiên về chửi bới sỉ nhục, thì bài viết về Văn Cao lại thiên về giọng điệu mỉa mai cay độc. Dưới ngòi bút Xuân Diệu, Lê Đạt chỉ là một nhà thơ cao bồi:
"Một anh cán bộ văn hóa đã bộc lộ rằng khi anh đọc thơ Lê Đạt cho một số thanh niên cao bồi ở Hà Nội thì họ mới nghe thoáng qua, chưa cần hiểu rõ từng câu, họ đã thích ngay. Cái máu cá nhân anh hùng rẻ tiền càn quấy ngổ ngáo của cao bồi đã gặp Lê Đạt là kẻ phát ngôn của họ".       
Nhưng trong mắt Xuân Diệu, Văn Cao lại như một "đại ca" nằm vùng, "giả dối như một con mèo, kín nhẹn như một bàn tay âm mưu trong truyện trinh thám", "lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt", "hiểm độc", "một cái giọng cao đạo, ra vẻ bác học, thông thái", "giọng tiên tri", v.v… Tất nhiên, điều chính yếu mà Xuân Diệu phải vạch ra bằng được ở Văn Cao là "cái duy tâm chủ quan, cái cá nhân chủ nghĩa bế tắc, cái tìm tòi lập dị, cái khinh thường quần chúng, một mớ cặn bã tư tưởng cũ rích"! Xuân Diệu cảnh tỉnh Văn Cao mà như có ý đồng thời tự căn dặn mình:
"Nhà văn trước tiên phải ôm lấy tư tưởng đúng, phải ôm lấy quần chúng vạn năng, phải ôm lấy Đảng vĩ đại, chứ nếu chỉ ôm lấy một mớ chữ, theo lối Văn Cao tán thưởng, thì chỉ là ôm lấy tro tàn thuốc lá hay cặn rượu mà thôi. Huống chi mớ chữ đó lại còn phản động, thì nhất định tiêu ma sự nghiệp." 
Tất nhiên, con người Xuân Diệu vốn không ham đấu đá, đấu tố, dù khi bị cuốn vào, khi được phân công viết phê phán những người và việc cụ thể, ông không thể không thực hiện, hơn thế, ông còn phải tỏ rõ sự nhất trí với chính thống cả về quan niệm lẫn thái độ, nên đã tỏ rõ nhiệt tình khi đang trong cuộc. Nhưng khi đợt đấu tranh đã chấm dứt, khi Xuân Diệu được bắt tay vào viết về thi hào dân tộc Nguyễn Du, ông đã không dấu nổi cái thở phào ngay ở phần đầu bài viết. Công việc làm thơ và tìm lại các giá trị thơ cổ điển dân tộc của ông, vài năm sau, sẽ thành tựu trong tập thơ Riêng chung, trong tập tiểu luận Ba thi hào dân tộc, v.v…
4c. Điều cần thiết sau cùng của bài này, theo đề tài tôi đã chọn, là cần kiểm điểm lại các xuất bản phẩm của Xuân Diệu trong những năm 1954-58.
Dưới đây là theo nguồn của Thư viện Quốc gia ở Hà Nội.
Các sách in riêng:
- Tiếng thơ, Hà Nội, Nxb. Văn nghệ, in lần thứ hai, 1954, 112 tr. 19cm.
- Ngôi sao, tập thơ 1945-1954, Hà Nội, Nxb. Văn nghệ, 1956, 97 tr. 19cm.
- Ký sự thăm nước Hung, Hà Nội, Nxb. Văn nghệ, 1956, 67 tr. 19cm.
- Mẹ con, thơ ca phát động, Hà Nội: Nxb. Văn nghệ, 1957, 36 tr. 18cm.
- Miền Nam nước Việt và người Việt miền Nam, bút ký, Hà Nội: Nxb. Xây dựng in lần thứ tư, 1957, 30 tr. 19cm. (in lần đầu: 1945)
- Triều lên, tập văn 1945-1957, Hà Nội, Nxb. Hội Nhà Văn, 1957, 161 tr. 19cm.
- Những bước đường tư tưởng của tôi, tiểu luận phê bình văn học, Hà Nội: Nxb. Văn hóa, 1958, 158 tr. 18cm.
Các sách in chung:
- Truyện bảy anh hùng / tập truyện anh hùng của Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu, v.v../ Hà Nội: Nxb Văn nghệ, in lần thứ hai, 1954, 144 tr. 19cm.
- Chúng tôi thăm Liên Xô / tập thơ văn của Nguyễn Tuân, Tú Mỡ, Xuân Diệu, v.v../ Hà Nội: Nxb. Văn nghệ, 1956, 47 tr. 26 cm.
- Nhìn sang bên kia, / tập thơ văn của Xuân Diệu, Lương An, Vĩnh Mai…/, Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn, 1957, 65 tr. 23 cm.
Nhìn vào danh mục trên, ta thấy rõ, trong những năm này, Xuân Diệu vẫn đang là một tác gia văn học sung sức, tuy rằng sự đóng góp cho văn học của ông không còn chủ yếu là ở lĩnh vực sáng tác thơ nữa.
                                                                                Tháng 8 – tháng 10/2008
                                                                                   LẠI  NGUYÊN  ÂN       

(a) "Năm 1976 [….] tạp chí Tác phẩm mới ngừng phát hành và Nhà xuất bản Tác phẩm mới của Hội Nhà văn Việt Nam ra đời. Cho đến năm 1987, do yêu cầu phát triển của văn học, tạp chí lại xuất bản với tên 'Tác phẩm văn học' khuôn khổ 13x19cm, ra hàng tháng; Tổng biên tập là nhà văn Nguyễn Đình Thi." (sách: Nhà văn việt Nam hiện đại (nhân kỷ niệm 35 năm thành lập Hội nhà văn Việt Nam). Hà Nội: Hội nhà văn Việt Nam xb., 1992, tr. 237.)  
(b) Bài đính chính những nội dung trên đã đăng nhật báo "Thể thao & Văn hoá"  19/8/2008
(1) Xem: Sưu tập Văn nghệ 1948-1954, tập 7: 1954, (Hữu Nhuận và Lại Nguyên Ân sưu tầm), Hà Nội, 2006: Nxb. Hội Nhà Văn, tr. 575-577.
(2) Xem trong cuốn: Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ "Việt Bắc" (Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn), Hà Nội: Nxb. VHTT, 2005, tr. 27, 46, 48.
(3) Xem: tin về ĐH 20 ĐCSLX, lời chào mừng ĐH 20 ĐCS LX của Trường Chinh trong tạp chí Học tập, s. 3 (tháng 2/1956); bản dịch toàn văn các văn kiện và một số tham luận chính tại ĐH 20 ĐCS LX trong tạp chí Học tập số 4 (tháng 3/1956), s. 5 (tháng 4/1956) và s. 6 (tháng 5/1956); các văn kiện hội nghị BCHTƯ ĐLĐ VN lần thứ 9 (mở rộng) gồm nghị quyết, lời bế mạc hội nghị của chủ tịch Hồ Chí Minh, báo cáo chính tại hội nghị của Tổng bí thư Trường Chinh: Đại hội lần thứ 20 của Đảng cộng sản Liên Xô, một cuộc Đại hội có ý nghĩa lịch sử trọng đại  trên tạp chí Học tập số 6 (tháng 5/1956); các bài trao đổi về vấn đề phương thức lãnh đạo tập thể, chống sùng bái cá nhân trên tạp chí Học tập các số 7 (tháng 6/1956), số 8 (tháng 7/1956), số 1 (tháng 1/1957), v.v…
(4) Sự kiện BCH TƯ ĐCS Liên Xô thông qua nghị quyết về chống sùng bái cá nhân được đăng trên Nhân dân ngày 3/7/1956, tr. 1; bài tóm tắt nội dung nghị quyết này được đăng trên Nhân dân ngày 5/7/1956, tr.3-4.
(5) Xã luận tạp chí Học tập số 8 (tháng 7/1956), tr. 3.
(5) Có lẽ ý Nguyễn Bính muốn nói là tập thơ Ngôi sao đã xuất bản trước khi công bố kết quả giải  thưởng văn học của Hội Văn nghệ  (đăng Văn nghệ  s. 112, ngày 15/3/1956). Nên chú ý là trong thể lệ dự giải văn học, tác phẩm gửi về tham dự giải có thể ở dạng bản thảo chưa in, có thể ở dạng sách đã xuất bản trong thời hạn được quy định.
(6) Xem trên nhật báo Nhân dân ngày 30/10/1956: 1/Thông cáo của Hội nghị lần thứ 10 (mở rộng) của Ban chấp hành trung ương Đảng lao động Việt Nam; 2/Thông cáo của Hội nghị lần thứ 10 BCH TƯ ĐLĐVN về việc cử lại Tổng bí thư BCH TƯ; 3/ Thông cáo của Hội nghị lần thứ 10 BCH TƯ ĐLĐVN về việc thi hành kỷ luật đối với những đồng chí ủy viên trung ương phạm sai lầm trong việc chỉ đạo công tác cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. 4/Tin tối 29/10/1956 hơn 10.000 đại biểu nhân dân thủ đô họp mặt tại Nhà hát nhân dân nghe thông báo về Nghị quyết Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 10, nghe đại tướng Võ Nguyên Giáp nói chuyện về nghị quyết hội nghị lần thứ 10 trung ương Đảng.
- Xem trên Nhân dân ngày 31/10/1956: Bài nói chuyện của đồng chí Võ Nguyên Giáp ủy viên bộ chính trị trung ương Đảng, về nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ 10, tr. 1, 2-3, 4.
- Xem trên Nhân dân ngày 2/11/1956: Thông cáo của Hội đồng chính phủ;
- Xem trên Nhân dân ngày 7/11/1956: Nghị quyết của Hội đồng chính phủ về mấy chính sách cụ thể để sửa chữa sai lầm về CCRĐ và chỉnh đốn tổ chức.
- Xem trên Nhân dân ngày 8/11/1956: Trích Nghị quyết của HĐCP về việc chấp hành chính sách cụ thể đối với phú nông, đối với những người bị vạch là thành phần bóc lột khác và những người có ít ruộng đất phát canh hoặc thuê người làm; Chính sách đối với địa chủ sau cải cách ruộng đất.
(7) Nguyễn Đình Thi: Mấy việc làm để xây dựng nền văn hoá văn nghệ của nhân dân ta (phát biểu trong phiên họp Quốc hội khoá thứ 6 ngày 18/1/1957) // Văn nghệ,  s. 158 (1/2/1957), tr. 1, 2. Lưu ý: báo chí đương thời gọi đây là "khoá họp" (QH) thứ 6"; theo cách gọi ngày nay, phải là "kỳ họp thứ 6" mới đúng; vì khi đó QH vẫn đang trong nhiệm kỳ I (nay cũng gọi là khoá I), được bầu cử từ 1946.
 
(8) Theo các bài tường thuật của Huyền Kiêu (VN. s. 161) và Bàng Sĩ Nguyên (VN. s. 162), có thể tóm tắt tiến trình Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai, họp tại Nhà hát Lớn Hà Nội từ 20/2/1957 đến 28/2/1957 như sau:
 
Chiều 19/2/1957: Họp trù bị, bầu Chủ tịch đoàn Đại hội, 25 người: Đặng Thai Mai, Hoàng Ngọc Phách, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Tú Mỡ, Hoài Thanh, Nguyễn Xuân Khoát, Lương Xuân Nhị, Phan Thao, Thế Lữ, Nguyễn Phương Danh (Tám Danh), Nông Quốc Chấn, Lưu Quý Kỳ, Nguyễn Cao Luyện, Văn Cao, Ái Liên, Thái Thị Liên, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Văn Tỵ, Y Dơn, Nguyễn Tuân, Nguyễn Nho Tuý (Đội Tảo), Trần Văn Lắm, Lưu Hữu Phước, Trần Huyền Trân
 
20/2/1957: phiên khai mạc; ngày họp thứ nhất
- Chủ tịch đoàn giới thiệu Đặng Thai Mai chủ toạ phiên họp đầu tiên. Chủ tịch đoàn giới thiệu bổ sung nhạc sĩ quân đội Đỗ Nhuận vào chủ tịch đoàn, đại hội biểu quyết bằng vỗ tay thông qua.
- Tổng thư ký Hội Văn nghệ VN Nguyễn Tuân giới thiệu thành phần đại hội và khách của đại hội: Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông Trường Chinh đại diện Đảng Lao động VN; trên 600 văn nghệ sĩ; các vị khách Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận tổ quốc, Quân đội nhân dân, đảng xã hội, đảng dân chủ, bộ văn hoá, các sứ quán, các phóng viên…
- Tổng thư ký Nguyễn Tuân đọc diễn văn khai mạc.
- Lời chào mừng của Mặt trận tổ quốc, của anh em văn nghệ sĩ đang công tác ở giới tuyến, nhà văn và trí thức Ru-ma-ni.
- Nguyễn Đình Thi thay mặt Ban chấp hành Hội đọc báo cáo chính: Văn học và nghệ thuật Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.
- Chiều: Nguyễn Đình Thi đọc tiếp báo cáo
- Ô. Trường Chinh đọc Thư của BCH TƯ ĐLĐ VN gửi đại hội.
 
21/2/1957: ngày họp thứ hai
- Lưu Quý Kỳ đọc báo cáo bổ sung về: Phong trào văn nghệ miền Nam trong chín năm qua và nhiệm vụ đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.
- Nông Quốc Chấn đọc báo cáo bổ sung về: Phong trào văn nghệ các dân tộc miền núi.
- Nguyễn Xuân Sanh đọc báo cáo bổ sung về: Dự thảo điều lệ Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
 
22/2/1957: ngày họp thứ ba
các đại biểu thảo luận theo ngành tại Nhà hát Lớn, CLB Đoàn Kết, CLB Thống Nhất; tối: đoàn bình kịch Cáp-nhĩ-tân (Trung Quốc) biểu diễn chào mừng đại hội với vở Đào hoa nhân diện.
 
23/2/1957: ngày họp thứ tư
- họp chung tại Nhà hát Lớn nghe các tham luận
- Chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND VN Nguyễn Chí Thanh phát biểu, mời văn nghệ sĩ sáng tác về các đề tài quân đội.
- Đại diện Ban liên lạc nông dân toàn quốc phát biểu hoan nghênh những sáng tác về nông thôn.
- Tham luận: Vũ Ngọc Phan về dân ca VN; Cầm Biêu về thơ dân tộc Thái; Tú Mỡ về trào phúng; Tô Vũ về vốn nhạc cổ; Cù Huy Cận về học tập vốn cũ dân tộc; Đào Duy Anh về vốn cũ dân tộc; Nguyễn Văn Tỵ về phổ biến tranh dân tộc; ngoài ra còn tham luận của Hoàng Châu Ký, Lã Văn Lô, Nhật Lai, Chi Lăng…
 
24/2/1957: chủ nhật, đại hội nghỉ,
Ban chấp hành hội Văn nghệ VN "mời đồng chí Trường Chinh, người bạn thân mến của văn nghệ sĩ VN" nói chuyện tại Nhà hát Lớn, với đầu đề: "Phấn đấu cho một nền văn nghệ dân tộc dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội" .
 
25/2/1957: ngày họp thứ năm
- đại diện Tổng Liên đoàn lao động VN Nguyễn Duy Tính, đại diện Hội LH Phụ nữ VN Đinh Thị Cẩn, đại diện Hội LH Thanh niên VN Hồ Trúc phát biểu những ước mong của giới mình với văn nghệ.   
- đại hội thảo luận về kinh nghiệm sáng tác và biểu diễn. Phạm Văn Đôn: về kết quả triển lãm hội hoạ VN tại Trung Quốc, Mông Cổ, Triều Tiên; Đào Duy Kỳ: Khai thác vốn dân tộc; Nguyễn Công Hoan: kinh nghiệm viết tiểu thuyết; Nguyên Hồng: ý thức nhà văn; Bàn Tài Đoàn: tôi học làm thơ như thế nào; Hồ Dzếnh: một ý nghĩ về sáng tác; Y Dơn: tôi làm văn nghệ; Đội Tảo: Người diễn tuồng cổ; hoạ sĩ Nguyễn Hiêm: đi vào quần chúng; Nông Quốc Chấn: thơ và đời sống; Thuý Ngần: tâm sự diễn viên…
 
26/2/1957: ngày họp thứ sáu
- Thứ trưởng bộ văn hoá Đỗ Đức Dục nói về trách nhiệm văn nghệ sĩ với việc nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân; Nguyễn Khánh Toàn (bộ giáo dục) nói về mối quan hệ của ngành giáo dục và văn nghệ sĩ.
- Các tham luận: Nguyễn Xuân Khoát: những khuyết điểm trong phê bình và tự phê bình; Lưu Công Nhân: chống lối phê bình thiếu nâng đỡ đối với hoạ sĩ trẻ; Nguyễn Đình Phúc: sáng tác lâu dài; Phùng Quán: nhận biết "mùi" trăm hoa là khó; Đỗ Nhuận bác lại ý Phùng Quán: "trăm hoa đua nở" không có nghĩa người trồng hoa có thể không có chủ định gì cả…; Xuân Diệu: về bệnh sơ lược trong văn nghệ; Lưu Trọng Lư: về con người mới; Bửu Tiến: tư tưởng tính trong sáng tác; Nguyễn Thành Long: vấn đề phê bình; Lan Sơn: tâm trạng người văn nghệ sĩ tiểu tư sản; Trần Thanh Mại: Đảng, sự thật  và văn học.
 
27/2/1957: ngày họp thứ bảy
- Tham luận và thảo luận về các nhiệm vụ. Phan Thị Nga: văn nghệ với phụ nữ; Phạm Hổ: văn nghệ với thiếu nhi; Trần Hoàn: lực lượng văn nghệ trẻ; Thái Thị Liên và Bích Được: hoàn cảnh khó khăn của diễn viên…
- Buổi chiều, đại biểu các ngành nghệ thuật trẻ: điện ảnh, nhiếp ảnh, múa rối, xiếc…đọc tham luận; Phan Thao: bàn về đâu tranh cho thống nhất nươc nhà.
 
28/2/1957: ngày họp thứ tám
- điện mừng đại hội của nhà văn Pháp André Still và Pierre Courtade
- Các tiểu ban báo cáo: Hoàng Như Tiếp báo cáo công việc của tiểu ban điều lệ; Đặng Thai Mai: công việc của tiểu ban nghị quyết; Nguyễn Đình Thi: nghị quyết của đại hội; Tú Mỡ (tiểu ban hiệu triệu): thư đại hội gửi các nhà văn nghệ miền Nam, thư đại hội gửi nhà văn trong nước và ngoài nước, thư gửi Trung ương Đảng LĐVN.
- Thông qua nghị quyết của đại hội. Nguyễn Tuân tuyên bố Hội Văn nghệ VN hết nhiệm kỳ. Đại hội bầu cử (bằng bỏ phiếu kín) Ban Chấp hành chính thức của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Chiều, công bố kết quả: có 45 văn nghệ sĩ trúng cử. BCH ra mắt.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đến mừng thành công của đại hội và nói chuyện với văn nghệ sĩ. 
- Tố Hữu trong đoàn chủ tịch đại hội đọc diễn văn bế mạc.
 
Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam
(do đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai bầu ra)
ngành văn: Nguyễn Văn Bổng, Hồ Dzếnh, (bà) Vân Đài, Bảo Định Giang, Nguyễn Công Hoan, Tố Hữu, Đặng Thai Mai, Tú Mỡ, Hoàng Ngọc Phách, Võ Huy Tâm, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân,  Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, Trần Hữu Thung
ngành mỹ thuật: Trần Văn Cẩn, (bà) Nguyễn Thị Kim, Trần Văn Lắm, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Văn Tỵ, Huỳnh Văn Thuận
ngành kiến trúc: Nguyễn Cao Luyện
ngành nhạc: Văn Cao, Lưu Quang Duyệt, Vũ Tuấn Đức, (bà) Thương Huyền, Nguyễn Xuân Khoát, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước
ngành múa: Hoàng Châu
ngành sân khấu: Nguyễn Phương Danh (Tám Danh), (bà) Ái Liên, Thế Lữ, Tống Văn Ngũ (Năm Ngũ), Nguyễn Thị Lan (bà Cả Tam), Nguyễn Nho Tuý (bác Tảo), Sĩ Tiến
ngành múa rối: Huỳnh Văn Cát
ngành xiếc: Phạm Xuân Thư
ngành điện ảnh: Phạm Văn Khoa, Mai Lộc
ngành nhiếp ảnh: Nguyễn Văn Phú
văn nghệ sĩ dân tộc thiểu số: Cầm Biêu, Nông Quốc Chấn, Y Dơn
(ngoài ra còn 10 ghế dành cho anh chị em văn nghệ hiện ở miền Nam).
 Phiên họp đầu tiên của Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, ngày 1/3/1957 tại trụ sở Hội số 51 Trần Hưng Đạo Hà Nội, dưới sự chủ toạ của nguyên Tổng thư ký Hội Văn nghệ VN Nguyễn Tuân, có mặt 39 uỷ viên chấp hành, đã bầu:
- Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật VN: Đặng Thai Mai
- 8 Phó chủ tịch: Nguyễn Tuân, Tú Mỡ, Nguyễn Xuân Khoát, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Cao Luyện, Nông Quốc Chấn, Nguyễn Phương Danh (Tám Danh), Thế Lữ
- Tổng thư ký: Nguyễn Đình Thi
- 3 phó tổng thư ký: Văn Cao, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Văn Bổng
- 13 vị trên đây họp thành Ban Thường vụ của Hội.
 
(9) "người phá kho bom Tân Sơn Nhất" ở đây ý nói nhân vật thiếu niên họ tên Lê Văn Tám, theo báo chí từ 1946 và nhiều năm về sau, là người đã tẩm xăng vào mình xông vào đốt kho bom ở địa điểm trên; do đây đã có một số truyện ký và kịch viết về đề tài này, trong số đó có kịch "Lửa cháy lên rồi" của Phan Vũ, được giải nhì về kịch trong giải thưởng văn học của Hội Văn nghệ VN 1954-55. Sau này đã xác minh đây không phải là sự kiện và con người có thực, nhưng điều này cũng chưa hề được thông tin chính thức.
(10) Nội dung điều III trong Điều lệ Hội Nhà văn 1957 nói trên là dẫn theo tường thuật của Đào Vũ, Hội nghị thành lập Hội nhà văn Việt Nam, đăng Tạp chí Văn nghệ, số 1, tháng 6/1957, tr. 109-118.
(11) Về các chi tiết liên quan đến Đại hội I Hội nhà văn VN và những người được coi là "hội viên sáng lập", tôi căn cứ vào tường thuật của báo Văn Tạp chí Văn nghệ  đương thời, theo đó số người tham dự đại hội I là 278; còn chuyện tư cách hội viên thì tại đại hội đã được bàn thảo và đi tới nhất trí: chỉ 25 nhà văn được bầu vào ban chấp hành khoá I được coi là "hội viên sáng lập" mà thôi. Sau đại hội, ban chấp hành đã tiến hành xét kết nạp hội viên trong một thời gian dài; một tiểu ban được lập ra để giúp việc này; phiên họp BCH từ 15 đến 18/8/1957 đã xét (bằng bỏ phiếu kín, lấy các trường hợp 50% + 1phiếu) được 127 người, sau đó xét kết nạp thêm 6 trường hợp là nhà văn các dân tộc thiểu số, cộng với 25 nhà văn là uỷ viên chấp hành; như vậy có 158 hội viên dự định được kết nạp. Phiên họp thứ 3 trong tháng 7/1957, Ban thường vụ xét kết nạp thêm 14 tác giả kịch bản cải lương tuồng chèo, đưa tổng số hội viên được kết nạp lần thứ nhất lên con số 172 người ("Văn" s. 22, ngày 4/10/1957, tr. 7). Trong khi đó, một số tài liệu do cơ quan Hội Nhà văn biên soạn sau này (cuốn sách mang tên Nhà văn Việt Nam hiện đại, biên soạn và in 1992; và 2 cuốn cũng mang tên ấy, soạn lại và in vào các năm 1997, 2007) thường nêu thông tin: có 165 đại biểu dự đại hội I và tất cả số người đó đều là "hội viên sáng lập". Điều này không phù hợp với các thông tin từ báo chí đương thời. Chưa rõ con số 165 hội viên đợt I (những người được ghi bằng ký hiệu A từ A 1 đến A 165 trong cuốn sách trên, bản in 1992) có xuất xứ từ đâu?
(12) Bài viết này khi đưa vào cuốn Một số vấn đề đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ hiện nay (Hà Nội: Nxb. Văn hóa, 1957, tr. 55-94) Nguyễn Đình Thi đã xóa bỏ những câu phê bình 2 ký giả tạp chí Học tập (trong đó có câu dẫn trên), đồng thời xóa bỏ những đoạn đồng tình với các nhà văn khác của tuần báo Văn khi họ bênh vực nội dung lành mạnh ở truyện ngắn Bích-xu-ra của Thụy An, − một trong những tác phẩm đăng báo Văn bị ký giả Thế Toàn nêu đích danh để phân tích chỉ trích trên tạp chí Học tập.
(12b) Ví dụ ít ra có 2 lần, những nội dung của tuần báo Văn số Tết Mậu Tuất 1958 (tức số 38+39) được quảng cáo trên báo Quân đội nhân dân (số 416, ngày 24/1/1958, tr. 5, và số 419, ngày 4/2/1958, tr. 4); thế nhưng trên thực tế thì số báo ấy đã không được xuất bản.
(13) Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 19: 1958. Hà Nội: Nxb. Chính trị quốc gia, 2002, tr. 6-7.
(13b) Phiên tòa liên quan đến vụ việc này được gọi là vụ án gián điệp, xử tại Tòa án nhân dân Hà Nội ngày 19/01/1960, tuyên phạt 5 người: Nguyễn Hữu Đang: 15 năm tù giam cộng thêm 5 năm mất quyền công dân; Lưu Thị Yến tức Thụy An: 15 năm tù giam cộng thêm 5 năm mất quyền công dân; Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức: 10 năm tù giam cộng 5 năm mất quyền công dân; Phan Tại: 6 năm tù giam cộng thêm 3 năm mất quyền công dân; Lê Nguyên Chí: 5 năm tù giam cộng 3 năm mất quyền công dân. (Xem tường thuật của báo Nhân dân, 21/01/1960, tr. 1, 6; của báo Thời mới, 21/01/1960, tr. 4; bài của Hồng Chương, tuần báo Văn học, số 80, ngày 5/2/1960, tr. 11, 14). Như vậy, có lẽ Phùng Cung và một số người khác bị xử trong một vụ khác chăng?
(14) Từ nguồn báo chí đương thời, các thông tin xử phạt cụ thể này khá mờ nhạt, rất ít rõ ràng, và hoàn toàn không đầy đủ. Điều đáng kể nữa là thường có sự mâu thuẫn lẫn nhau giữa các nguồn tin. Chẳng hạn, sách "Nhà văn Việt Nam hiện đại" (biên soạn và in năm 1992 đã dẫn trên) không ghi tên Thụy An và Trương Tửu trong danh sách hội viên, nhưng thông báo của Hội nghị BCH HNV khóa I ngày 2&3/7/1958 (đăng báo Văn học số 5, ngày 5/7/1958) lại cho biết Thụy An và Trương Tửu bị khai trừ; vậy điều hiển nhiên là 2 người ấy đã từng là hội viên Hội nhà văn Việt Nam!
(15) Những trường hợp loại này, xảy ra ở các địa phương khác nhau, là không ít; ví dụ sinh viên Trần Niêm của khoa ngữ văn ĐHTH Hà Nội, nhà báo Tuân Nguyễn (1933-83; xem cuốn Nhớ Tuân Nguyễn, Hà Nội, Nxb. Hội Nhà Văn, 2008); hoặc một trường hợp theo lời kể của nhà thơ Tế Hanh: người thợ đã may complet cho Phan Khôi và Tế Hanh đi Trung Quốc dự lễ kỷ niệm Lỗ Tấn năm 1956, sau này nhân lúc tình cờ gặp lại Tế Hanh đã cho biết ông ta bị đưa đi cải tạo gần 10 năm chỉ với lý do: đã từng may quần áo cho Phan Khôi, một phần tử Nhân văn – Giai phẩm! Tế Hanh đã kể chuyện này nhiều lần với nhiều người, trong số đó có tôi; và tôi được biết, có cả nhà thơ Thanh Thảo (Hồ Thành Công). 
(16) Nguyễn Bao: Đọc sách: "Những bước đường tư tưởng của tôi" của Xuân Diệu, Nxb. Văn hóa // Tổ quốc, Hà Nội, s. 106 (1/7/1958), tr. 23.
Lên trang viet-studies ngày 7-11-10

http://viet-studies.info/LaiNguyenAn_XuanDieu.htm
0o0

Tế Hanh,
"người Do Thái lang thang" trên đất Bắc
Thật tình, đối với các nhà thơ tiền chiến theo Cộng Sản, tôi ít khi nhớ tới Tế Hanh. Điều đó dễ hiểu vì hầu hết những nhà thơ nầy đều phản thùng nên nhớ tới họ làm chi?! Khi còn trẻ, càng ngưỡng mộ họ bao nhiêu thì khi lớn lên, đọc những câu thơ như "Thắp đèn cho sáng ba gian, Lôi mi ra giữa đình làng đêm nay," hay bài "Trước đây ba tháng" của Xuân Diệu tôi thấy thất vọng vô cùng. Thơ thẩn mà như thế thì còn nhắc đến họ làm gì!
Bỗng nhiên, mới đây, tôi nghe tin Tế Hanh từ trần.
Có lẽ ông nầy cũng khác chút ít với mấy ông kia!
Khác cái gì?
Trước hết thơ Tế Hanh không "sặc mùi đấu tố" hay "học tập" như thơ Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu. Không rõ Tế Hanh có phải tham gia các lớp học tập như các nhà thơ tiền chiến sau cái gọi là "Luận cương văn hóa nổi tiếng" của Trường Chinh hay không? Thực chất, cái gọi là luận cương đó chỉ là sản phẩm "chôm" của Mao, hay có thể gọi là một bản sao chép của Mao cũng vậy.
Thế rồi các nhà thơ tiền chiến tích cực học tập, làm bài, làm thơ "phản tỉnh" như Xuân Diệu hay làm "thơ đấu tố", tham gia Cải cách Ruộng đất như Lưu Trọng Lư.
May mắn cho Tế Hanh, trong thời gian học tập và đấu tố như thế xảy ở mìền Bắc thì Tế Hanh hoạt động ở Liên Khu 5, tham gia "công tác giáo dục" ở Nam Trung Bộ, và cũng hoạt động văn nghệ ở vùng nầy, nói rõ ra là Nam-Ngãi-Bình-Phú, ít có quan hệ với các lớp học tập và đấu tố Cải cách Ruộng đất ở ngoài kia.
Tập kết năm 1954, ông không liên quan gì tới nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Một phần, ông không phải là một "thiên tài thi ca", thơ ông chẳng có gì xuất sắc. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, ông chẳng có bài thơ nào được người ta khen ngợi. Thứ hai nữa, bản sắc địa phương là niềm tự hào của các nhà gọi là làm thơ, làm văn. Một nhà thơ dù có "thành danh", có chút ít tiếng tăm, nhưng lớ ngớ giữa Hà Thành ngàn năm văn vật, nên ít được ai chú ý, mời gọi tham gia. Nhờ đó, ông thoát nạn tù tội trong các đợt đánh phá "bọn văn nghệ sĩ chống đảng".
Nhìn kỹ vào sự nghiệp thơ của Tế Hanh, người yêu thơ thấy rõ ông là một nhà thơ chân chất, thật thà và tình cảm.
Trước năm 1945, trong khi các nhà thơ mới dần dần đi vào các lĩnh vực thơ siêu thực, tượng trưng, triết học, như Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ cho kịp với trào lưu tư tưởng Tây Phương thì ông vẫn là một nhà thơ bình dị, chân chất, Việt Nam. Thơ ông đi với "Con Đuờng Quê", với "Quê Hương" với nắng sớm, mưa chiều, với hương đồng cỏ nội, với biển và… muối mặn.
Người ta biết thơ ông rất sớm, khi còn học tiểu học. Ở các lớp Ba, lớp Nhì, có lẽ không ít anh chị "học trò thò lò mũi xanh" đứng trước bảng đen, vòng tay cúi đầu trước mặt thầy cô giáo, đọc một lèo những câu như "Làng tôi vốn làm nghề chài lưới, Nước bao vây cách biển một ngày sông" hay "Tôi con đường nhỏ chạy lang thang, Mang nỗi buồn không chạy khắp làng" để hớn hở cầm vở xuống bàn với 10 điềm ngon ơ.
Qua đó, người ta có thể cho rằng thơ Tế Hanh đi vào lòng người sớm lắm, khi người ta còn là trẻ con. Lớn hơn chút nữa, khi những đứa trẻ bắt đầu "dỡ chứng", chưa hẵn đã trốn học như Đinh Hùng "làm học trò nhưng không sách cầm tay" thì cũng bắt gặp Tế Hanh trong hồn mình với "Những chiều nghỉ học tôi hay tới, Đón chuyến tầu đi đến những ga."
Ở cái tuổi niên thiếu ấy, cậu học trò chưa thấy gì xa hơn hai thanh sắt đường xe lửa chạy dài tới phương trời xa tít, hay những toa xe nhỏ nằm im, cô đơn trong cái ga xép phố chợ nhỏ. Và dĩ nhiên, cậu học trò cũng buồn như Tế Hanh vậy" "Lâu lâu cò rúc nghe rền rĩ, Lòng của người đi réo kẻ về."
Những bài thơ Tế Hanh làm khi ông còn trẻ, chưa nhuốm "mầu cách mạng" thì hay lắm. Nó là cái gì rất gần gủi thân quen, cái người ta biết, người ta đã từng qua nhưng chưa quan sát thấy rõ, thì ông thấy rất rõ và nói lên một cách chân tình, tinh tế. Chẳng hạn: Mấy ai thấy "Nỗi buồn không" của con đường làng. Ai cũng nghe "còi rúc nghe rền rĩ". Nghe tiếng còi tầu ở phương nào là biết người mình đưa tiển ở phương ấy nhưng mấy ai nghĩ rằng đó là "Lòng của người đi réo kẻ về." Chữ "réo" nghe hay lắm. Nó như một lời kêu gọi, một tiếng than, thậm chí như một ánh mắt từ phương ấy nhìn về…
Sau nầy, khi đất nước trì trệ, kẻ cầm quyền ù lì, lạc hậu, ngoan cố thì nước Việt Nam giống như chiếc tầu của Tế Hanh: "Tôi thấy tôi thương những chiếc tầu, Ngàn đời không đủ sức đi mau…"
 Sau khi tập kết ra bắc năm 1954, lòng nhớ quê hương của ông vẫn sâu đậm, nhưng cái tính chất thơ thời trai trẻ của ông không còn nữa.
Đọc những bài thơ ông làm sau khi ra Bắc, tôi thấy chỉ có một bài tương đối hay mà tự nhiên, tình cảm đậm đà. Đó là:
Bài thơ tình ở Hàng Châu
Anh xa nước nên yêu thêm nước
Anh xa em càng nhớ thêm em
Trăng Tây Hồ vời vợi thâu đêm
Trời Hàng Châu bốn bề êm ái
Mùa thu đã đi qua còn gửi lại
Một ít vàng trong nắng trong cây
Một ít buồn trong gió trong mây
Một ít vui trên môi người thiếu nữ...
Anh đã đến những nơi lịch sử
Đường Tô - Đông - Pha làm phú
Đường Bạch - Cư - Dị đề thơ
Hồn người xưa vương vấn tự bao giờ
Còn thao thức trên cành đào ngọn liễu
Phong cảnh đẹp nhưng lòng anh thấy thiếu
Bức tranh kia anh muốn điểm thêm màu
Có hai ta cùng tựa bên cầu
Cho mặt nước Tây - Hồ trong sáng nữa
Lá phong đỏ như mối tình đượm lửa
Hoa cúc vàng như nỗi nhớ dây dưa
Làn nước qua ánh mắt ai đưa
Cơn gió đến bàn tay em vẫy
Chúng mình đã yêu nhau từ độ ấy
Có núi sông và có trăng sao
Có giận hờn và có cả chiêm bao
Cay đắng ngọt bùi cuộc đời kháng chiến
Nói sao hết em ơi bao kỉ niệm...
Những ngày buồn nghĩ đến thấy vui vui
Những ngày vui sao lại thấy bùi ngùi
Anh không muốn hỏi nhiều quá khứ
Ngày đẹp nhất là ngày rồi gặp gỡ
Rời Tây Hồ trăng xuống Bắc Cao Phong
Chỉ mình anh với im lặng trong phòng
Anh ngước nhìn bức thêu trên vách:
Hai bóng người đi một hàng tùng bách
Bàn tay nào đã dệt nỗi lòng anh?
Tiếng mùa xuân đem sóng vỗ bên mình
Vơ vẩn tình chăn chập chờn mộng gối
Anh mơ thấy Hàng Châu thành Hà Nội
Nước Tây Hồ bỗng hoá nước Hồ Tây
Hai chúng mình cùng bước dưới hàng cây
1956
Độc giả nhớ lấy, bài thơ nầy ông làm năm 1956, dù đã theo kháng chiến 9 năm, cái tính chất lãng mạn trong thơ mới vẫn còn dây dưa nơi ông. Tâm hồn ông chưa hoàn toàn bị nhuộm  đỏ.
Suốt mấy chục năm ở ngoài Bắc, ông luôn luôn hướng vê Nam. Ông làm không ít thơ nói về nỗi nhớ miền Nam của ông!
Tại sao vậy?
Tại vì ông nhớ quê hương. Dĩ nhiên.
Nhưng điểm chính là ông không thấy hạnh phúc ở "Thiên đường Cộng sản". Ông không chịu nỗi cảnh sống ở miền Bắc. Không chịu nỗi miền Bắc nên nhớ lắm miền Nam. Nếu ông nhận miền Bắc là "Thiên đường", hay ít ra là "Quê hương thứ hai", thì không bao giờ ông thấy mình là "người Do Thái lang thang" trên quê hương đó.
Thật vậy, xin đọc bài thơ sau đây:
           
                        Chuyện Buồn
Một đêm kia, một người Do Thái
Kể lể cùng tôi nỗi nhớ nhà
Thất thểu trọn đời nơi đất khách
Ăn nhờ, sống gửi xứ người ta.

- Tôi nhớ, ông ơi, héo cả hồn!
Đời tôi, tôi chẳng muốn gì hơn
Là về cố quận, mai sau chết
Còn có bên nhà miếng đất chôn.

- Tôi cũng như ông, cũng lạc loài,
Bơ phờ như chiếc lá thu rơi;
Lang thang mang bóng nơi xa ấy
Tôi cũng như ông, cũng nhớ hoài.

Nhưng nỗi sầu ông dễ hiểu hơn,
Chớ tôi không biết cớ sao buồn:
Chưa hề mất mát, nhưng tìm mãi,
Chẳng cách vời ai, vẫn đợi luôn.
            Tôi không tán bậy, nhưng tôi không hết suy nghĩ bốn câu thơ cuối. Hình như ông muốn nói một cái gì đó mà không nói được. Nỗi buồn của người Do Thái là nỗi buồn mất nước. Ông khác chứ. Ông nói rõ "chưa hề mất mát", nghĩa là quê hương ông vẫn còn đó. Ông muốn về Nam vì miền Nam "Chẳng cách vời ai" nhưng không về được. Không về được là vì ai? Đọc tới đây, độc giả có thể "tán" thêm, bằng nhiều ý, theo quan điểm của mỗi độc giả.
            Dù vậy, cũng có người phản bác. Không! Ông được chính quyền miền Bắc chiếu cố nhiều lắm chứ. Bằng chứng là ông đã được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
            Đừng quên chế độ Cộng Sản là chế độ bánh vẽ. Cái gì ăn gian, ăn lận, ăn cắp, tham nhũng là bánh thật. Cái gì có làm lễ, có treo cờ gióng trống, có cờ đảng, có hát quốc tế, quốc gia thì chỉ là bánh vẽ.
            Cái bánh vẽ đó, cắt ra, trao cho Xuân Diệu một miếng, Huy Cận một miếng, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm mỗi người một miếng thì cũng nên trao cho Tế Hanh một miếng để an ủi con ngựa già có công "hãn mã".
            Tới gần cuối đời, khi Tế Hanh còn sống ngúc ngắc, tặng cho ông tờ giấy nhỏ, cũng là để an ủi, làm yên lòng một "người Do Thái lang thang" trên miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa.
tuệchươnghoànglonghải
phụ lục:
Những Ngày Nghỉ Học
Tặng Nguyễn Văn Bổng
Những ngày nghỉ học tôi hay tới
Đón chuyến tàu đi đến những ga
Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt,
Lòng buồn đau xót nỗi chia xa.

Tôi thấy lòng thương những chiếc tầu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có chi vương víu trong hơi máy.
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau .

Bánh nghiến lăn lăn quá nặng nề!
Khói phì như nghẹn nỗi đau tê;
Lâu lâu còi rúc nghe rền rĩ;
Lòng của người đi réo kẻ về.

Kẻ về không nói bước vương vương...
Thương nhớ lan xa mấy dặm trường,
Lẽo đẽo tôi về theo bước họ
Tâm hồn ngơ ngẩn nhớ muôn phương.
Lời con đường quê
Tôi, con đường nhỏ, chạy lang thang
Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng,
Đến cuối thôn kia hơi cỏ vướng,
Hương đồng quyến rũ hát lên vang.

Từ đấy mình tôi cỏ mọc đầy;
Dọc lòng hoa dại ngát hương lây;
Tôi ôm đám lúa, quanh nương sắn,
Bao cái ao rêu nước đục lầy .

Những buổi mai tươi nắng chói xa,
Hồn tôi lóng lánh ánh dương sa,
Những chiều êm ả tôi thư thái
Như kẻ nông dân trở lại nhà.

Tôi đã từng đau với nắng hè:
Thịt da rạn nứt bởi khô se;
Đã từng điêu đứng khi mưa lụt :
Tôi lở, thân tan rã bốn bề.

Tôi sống mê man tránh tẻ buồn,
Miệt mài hể hả, đắm say luôn
Tôi thâu tê tái trong da thịt
Hương đất, hương đồng chẳng ngớt tuôn .
Quê hương

              (Chim bay dọc biển đem tin cá*)

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã
Phăng mái chèo vội vã vượt trường giang
Cánh buồm trương, to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió ...
Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe.
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm!
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong chất vỏ.
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cài mùi nồng mặn quá.
____________________________

* Câu thơ của thân phụ tôi (T.H)
           
Tế Hanh tên thật là Trần Tế Hanh, sinh ngày 20 tháng 6 năm 1921, quê làng Đông Yên, xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Thuở nhỏ học trường làng, trường huyện sau ra học tại trường Quốc học Huế. Ông sáng tác thơ từ sớm và đã đứng trong phong trào Thơ mới với tập Nghẹn ngào giành giải khuyến khích của Tự lực văn đoàn. Tham gia Việt Minh từ tháng 8 năm 1945, Tế Hanh đã trải qua các công tác văn hoá, giáo dục ở Huế, Đà nẵng, là Ủy viên giáo dục trong Uỷ ban lâm thời thành phố Đà nẵng sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Năm 1947, ông làm việc trong Ban phụ trách Trường trung học bình dân Trung bộ, năm 1948, ông ở trong Ban phụ trách liên đoàn văn hoá kháng chiến Nam Trung bộ ủy viên thường vụ chi hội Văn nghệ Liên khu V. Năm 1957 khi thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, ông là Ủy viên thường vụ Hội khoá I, II, ủy viên thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam (1963), tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam nhiều khóa, giữ các chức vụ: Trưởng ban đối ngoại (1968), Chủ tịch Hội đồng dịch thuật (1983), Chủ tịch Hội đồng thơ (1986).
Ngoài thơ, Tế Hanh còn dịch nhiều tác phẩm của các nhà thơ lớn trên thế giới, viết tiểu luận phê bình văn học, thơ thiếu nhi.
Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996
Tác phẩm chính
Nghẹn ngào (1939)
Hoa niên (1944)
(Theo wikipedia)
 http://www.vietnamexodus.info/vne0508/vnenews1/bandocviet/tuechuong/trantehanh.htm



__,_._,___



From: Dzung T <dzungthedinh@yahoo.com>
To: ""Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com"" <Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com>; """"exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com"""" <exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com>
Sent: Thursday, November 10, 2011 7:38 PM
Subject: [Exryu-ww-Forum] Hai nhà thơ cộng sản: XUÂN DIỆU & Tế Hanh


No comments:

Post a Comment