Friday, September 30, 2011

9/11 - It's really weird! - Những điều kỳ lạ liên quan tới biến cố 9/11


----- Forwarded Message -----
From: Thang Nguyen <ttnguyen_21@hotmail.com>
To:
Sent: Monday, September 5, 2011 2:09 PM
Subject: [HUYET-HOA] FW: 9/11 - It's really weird! - Những điều kỳ lạ liên quan tới biến cố 9/11

 

 

Date: Sun, 4 Sep 2011 17:08:25 -070
Subject: 9/11 - It's really weird! - Những điều kỳ lạ liên quan tới biến cố 9/11
To:



Để tưởng niệm 10 năm biến cố 9/11 (9/11/2001), mời quý bạn đọc những điều kỳ lạ sau đây liên quan tới 
biến cố 9/11. Bản phiên dịch tiếng Việt ở phần cuối. Chúc quý bạn một "MÙA TRUNG THU" vui tươi & khỏe mạnh.

QH.

                               
------------------------------------ It's Really Weird! -------------------------------------------


Try this when you get to the bottom I did and it is weird.
 
This is actually really freaky!! (mainly the end part, but read it all first)
1) New York City has 11 letters
2) Afghanistan has 11 letters.
3) Ramsin Yuseb (The terrorist who threatened to destroy the Twin Towers in 1993) has 11 letters.
4) George W Bush has 11 letters.
 
This could be a mere coincidence, but this gets more interesting:
1) New York is the 11th state.
2) The first plane crashing against the Twin Towers was flight number 11.
3) Flight 11 was carrying 92 passengers. 9 + 2 = 11
4) Flight 77 which also hit Twin Towers, was carrying 65 passengers. 6+5 = 11
5) The tragedy was on September 11, or 9/11 as it is now known. 9 + 1+1 =11
6) The date is equal to the US emergency services telephone number 911. 9 +1 + 1 = 11
 
Sheer coincidence..?! Read on and make up your own mind:
1) The total number of victims inside all the hi-jacked planes was 254. 2 +5 + 4 = 11.
2) September 11 is day number 254 of the calendar year. Again 2 + 5 + 4=11.
3) The Madridbombing took place on 3/11/2004. 3 + 1 + 1 + 2 + 4 = 11.
4) The tragedy of Madrid happened 911 days after the Twin Towers incident.
 
Now this is where things get totally eerie:
The most recognized symbol for the US, after the Stars & Stripes, is the Eagle. The following verse is taken from the Quran, the Islamic holy book:
"For it is written that a son of Arabia would awaken a fearsome Eagle. The wrath of the Eagle would be felt throughout the lands of Allah while some of the people trembled in despair still more rejoiced: for the wrath of the Eagle cleansed the lands of Allah and there was peace."
That verse is number 9.11 of the Quran. unconvinced about all of this Still .?!
 
Try this and see how you feel afterwards, it made my hair stand on end:
Open Microsoft Word and do the following:
1. Type in capitals Q33 NY. This is the flight number of the first plane to hit one of the Twin Towers.
2. Highlight the Q33 NY.
3. Change the font size to 48.
4. Change the actual font to the WINGDINGS What do you think now?!!
 
Q33 NY
 
 
 
Bạn hãy thử những điều này cho đến dưới cùng. Tôi đã làm và thấy nó rất là lạ.
 
Những điều này thực sự là kỳ quái! (Chủ yếu là phần cuối cùng, nhưng hãy đọc những điều đầu tiên trước)
1) thành phố New York có 11 chữ cái
2) Afghanistan có 11 chữ cái.
3) Ramsin Yuseb (khủng bố đe dọa phá hủy tháp đôi vào năm 1993) có 11 chữ cái.
4) George W Bush có 11 chữ cái.
 
Điều vừa rồi có thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng điều sau đây sẽ thú vị hơn:
1) New York là tiểu bang thứ 11.
2) Chiếc máy bay đầu tiên đâm vào tòa tháp đôi là chuyến bay số 11.
3) 11 chuyến bay chở 92 hành khách. 9 + 2 = 11
4) Chuyến bay 77 cũng đâm vào tòa tháp đôi, chở 65 hành khách. 6 +5 = 11  
5) Thảm kịch xảy ra ngày 11 tháng 9, 9 / 11 và bạn biết là. 9 + 1 +1 = 11
6) Ngày trùng hợp với số điện thoại khẩn cấp 911 số điện thoại. 9 +1 + 1 = 11
 
Vẫn là sự trùng hợp ngẫu nhiên ..? Tiếp tục đọc và bạn tự suy nghĩ:
1) tổng số nạn nhân bên trong tất cả các máy bay bị cướp 254. 2 +5 + 4 = 11.
2) ngày 11 tháng 9 là ngày thứ 254 của năm dương lịch. Một lần nữa 2 + 5 + 4 = 11.
3) Madridbombing đã xảy ra vào ngày 2004/03/11. 3 + 1 + 1 + 2 + 4 = 11.
4) Bi kịch của Madrid đã xảy ra 911 ngày sau khi biến cố tháp đôi.
 
Bây giờ đây là nơi mà mọi thứ trở nên hoàn toàn kỳ lạ:
Biểu tượng của Hoa Kỳ được công nhận nhiều nhất, sau các ngôi sao & lằn kẻ, là chim đại bàng. Câu sau đây được lấy từ Kinh Qur'an, các cuốn sách thánh Hồi giáo:
"Vì đã được ghi chép rằng một đứa con trai của Ả Rập Xê-út sẽ đánh thức một con đại bàng. Cơn thịnh nộ của con đại bàng sẽ được cảm nhận trên khắp các vùng đất của Allah trong khi một số người run lên trong tuyệt vọng vẫn vui mừng: cơn thịnh nộ của con đại bang sẽ làm sạch các vùng đất Allah và có sự hòa bình. "
Câu Đó là số 9,11 của Kinh Qur'an.
Bạn vẫn chưa bị thuyết phục vì tất cả những điều trên?
 
Hãy thử điều này và xem bạn cảm thấy thế nào, nó đã làm tôi dựng tóc gáy:  
Mở Microsoft Word và làm như sau:
1. Đánh chữ hoa Q33 NY. Đây là số chuyến bay của máy bay đầu tiên đã đâm vào những tòa tháp đôi.
2. Tô đậm (highlight) NY Q33.
3. Thay đổi kích thước font chữ đến 48.
4. Thay đổi font chữ là Wingdings và bây giờ bạn nghĩ gì?
 
 
Q33 NY








__._,_.___
Recent Activity:
" Khong mang NUOC va DAN di dang cho mot NUOC NGOAI truoc khi tranh doi va khoi phuc lai duoc NUOC va DAN o tay mot NUOC NGOAI."
MARKETPLACE
A bad score is 598. A bad idea is not checking yours, at freecreditscore.com.

.

__,_._,___


Những nhà phát minh dính nghi án "đạo" ý tưởng


Những nhà phát minh dính nghi án "đạo" ý tưởng

http://ue.vnweblogs.com/gallery/18513/HV_01.gif

Một số nghiên cứu gần đây cho thấy, Galileo Galilee có thể không phải là người phát minh ra kính viễn vọng, Alexander Fleming không phải người đầu tiên khám phá ra penicillin và Graham Bell rốt cuộc có thể không sáng chế ra điện thoại,... Hãy cùng trang Cracked điểm lại một số tên tuổi lớn bị nghi ngờ là những nhà phát minh ăn cắp ý tưởng.

Galileo Galilee

Galileo Galilee thường được biết đến như một nhà thiên văn học kiêm nhà vật lý học và toán học lừng danh người Italia. Nếu hỏi bất kỳ học sinh trung học bình thường nào về đóng góp để đời của Galileo cho khoa học thì câu trả lời nhận được đa phần là "kính viễn vọng". Tuy nhiên, nhiều bằng chứng cho thấy Galileo đã không phát minh ra dụng cụ này.

Vậy ai thực sự là người đầu tiên sáng chế ra kính viễn vọng?
Vậy ai thực sự là người đầu tiên sáng chế ra kính viễn vọng?

Mặc dù mọi người đều hướng quan sát các vì sao trên bầu trời nhưng không có ai làm việc đó nghiêm túc và đầu tư nhiều công sức như một người Hà Lan có tên Hans Lippershey. Năm 1608, Lippershey đã hoàn tất chiếc kính viễn vọng đầu tiên trên thế giới và dự định xin cấp bằng sáng chế cho phát minh này, nhưng đã bị từ chối vì một lý do không rõ ràng nào đó.

Ở cách đó vài nước, khi Galileo nghe về công trình của Lippershey, ông đã nhanh chóng chế tạo kính viễn vọng của mình vào năm 1609. Và điều cần lưu ý ở đây là, mẫu kính viễn vọng của Galileo chỉ có thể nhìn xa hơn chút ít so với sáng chế của Lippershey.

Một điểm đặc biệt nữa là, mặc dù Galileo chưa bao giờ đăng ký bản quyền tác giả kính viễn vọng nhưng tên tuổi của ông luôn đồng nghĩa với việc phát minh ra dụng cụ này, trong khi tên của Lippershey gần như vắng bóng khỏi các sách giáo khoa cũ. Thêm vào đó, 4 mặt trăng bao quanh sao Mộc được đặt tên theo Galileo trong khi chỉ có một hố trên Mặt trăng của Trái đất được gọi là Lippershey.

Alexander Fleming

Alexander Fleming là cái tên mọi người thường nghĩ đến khi nhắc tới thuốc penicillin. Thậm chí còn có cả một câu chuyện hấp dẫn đi kèm với nó. Theo giai thoại, cha của Fleming đã cứu một cậu bé khỏi chết đuối ở Scotland, và cha của cậu bé này đã cam kết sẽ tài trợ cho việc học hành của Fleming để trả ơn. Cuối cùng, Fleming tốt nghiệp trường y và phát hiện ra bản chất chữa bệnh của penicillin, vốn về sau giúp cứu mạng Winston Churchill - Thủ tướng Anh thời Thế chiến thứ hai khi ông bị viêm phổi. Và Winston Churchill cũng chính là cậu bé từng được cha của Fleming cứu sống thuở nào.

Alexander Fleming

Tuy nhiên, tất cả những điều trên chỉ là hư cấu vì Churchill không được chữa trị bằng thuốc penicillin và quan trọng hơn, Fleming không phải là người khám phá ra loại thuốc này.

Vậy trong thực tế, ai là người đầu tiên phát hiện ra penicillin? Rất khó để có câu trả lời chính xác. Các thổ dân ở Bắc Phi đã sử dụng penicillin hàng ngàn năm qua.

Ngoài ra, năm 1897, Ernest Duchesne từng sử dụng nấm mốc penicillium để chữa trị bệnh thương hàn ở các con chuột lang - một thí nghiệm cho thấy ông hiểu được các khả năng của penicillin. Vào thời điểm đó, các nhà khoa học khác đã không xem xét công trình của Duchesne một cách nghiêm túc vì tuổi tác của ông cũng như sự quan tâm kỳ lạ của nhà khoa học này với những con chuột lang. Do đó, Duchesne chưa bao giờ nhận được bằng sáng chế cho phát hiện của mình. Ông qua đời khoảng 10 năm sau đó vì một căn bệnh hoàn toàn có thể được chữa khỏi bằng penicillin.

Ngay cả khi Fleming vô tình phát hiện ra penicillin nhiều năm sau đó, ông cũng từng không tin nó có thể thực sự giúp ích được ai đó. Vì vậy, ông đã ngừng nghiên cứu về nó. Trong khi đó, một số ít nhà khoa học khác như Howard Florey, Norman Heatley, Andrew Moyer và Ernst Chain đã bắt đầu nghiên cứu về penicillin. Họ cuối cùng đã làm chủ được penicillin cũng như tìm ra một cách để sản xuất nó hàng loạt.

Thực tế là, mặc dù Fleming không phải là người đầu tiên phát hiện ra penicillin cũng như không thực sự tin vào sự hữu ích trong chữa bệnh của loại thuốc này nhưng tên tuổi của ông vẫn đi vào lịch sử như người đã khám phá ra penicillin và cứu sống Winston Churchill.

Alexander Graham Bell

Alexander Graham Bell, người có tên tuổi gắn liền với sự ra đời của điện thoại, rốt cuộc không phải là người phát minh ra vật dụng hữu ích này. Năm 1860, một người Italia có tên là Antonio Meucci lần đầu tiên công bố chiếc điện thoại có thể hoạt động của ông với tên gọi "teletrofono". 11 năm sau (tức là 5 năm trước khi điện thoại của Bell xuất hiện), Meucci đã đệ đơn xin cấp bằng sáng chế tạm thời cho phát minh của mình. Nhưng đến năm 1874, Meucci đã không nộp được 10 USD cần phải có để gia hạn bằng sáng chế vì lúc này ông đang ốm yếu và nghèo khó.

Alexander Graham Bell

2 năm sau đó, Bell đăng ký bản quyền sáng chế điện thoại. Tất nhiên, khi đó, Meucci đã cố gắng khởi kiện bằng cách lấy lại các phác thảo và kế hoạch ban đầu mà ông đã gửi đến một phòng thí nghiệm tại Western Union, nhưng đáng ngạc nhiên là tất cả những hồ sơ này đều biến mất. Lúc đó Bell đang làm việc ở đâu? Một sự trùng hợp kỳ lạ là chính tại phòng thí nghiệm mà Meucci thề đã gửi các phác thảo của ông tới đó. Cuối cùng, Meucci chết trong hoàn cảnh không một xu dính túi và tên tuổi dần đi vào quên lãng.

Liệu Bell, với vị trí thuận lợi của mình tại Western Union, có hủy hoại các hồ sơ của Meucci để có thể tuyên bố điện thoại là sáng chế của mình hay không? Rất khó để có câu trả lời. Một số người nghi ngờ là "có", số ít khác lại nhận định "có thể". Điều đó sẽ có lý khi chúng ta nhìn vào thực tế rằng: Bell là người làm nên nhiều sáng chế quan trọng và không hẳn bất hợp lý khi cho rằng ông có thể đã trở nên tham lam và không muốn chứng kiến bất cứ ai khác thành công. Hơn nữa, tại sao Bell lại cần có điện thoại trong khi cả vợ và mẹ ông đều bị điếc?

Thomas Edison

Thomas Edison - "thầy phù thủy ở Menlo Park" được coi là một trong những nhà phát minh giàu ý tưởng nhất trong lịch sử thế giới với kỷ lục nắm giữ 1.093 bằng sáng chế ghi tên ông. Một số phát minh được gán cho Edison tuy ông không hoàn toàn là người đầu tiên có ý tưởng về chúng. Tuy nhiên, sau khi các bằng sáng chế ban đầu được thay đổi, chúng trở thành của Edison (nổi tiếng nhất là bản quyền phát minh bóng đèn) dù trên thực tế là kết quả phát minh của rất nhiều người trong công ty của ông.

Đối với trường hợp bóng đèn, ai mới là người thực sự phát minh ra thiết bị chiếu sáng này?
Đối với trường hợp bóng đèn, ai mới là người thực sự phát minh ra thiết bị chiếu sáng này?

Rất nhiều người đã có ý tưởng chế tạo bóng đèn như Jean Foucault, Humphrey Davy, J.W. Starr,... nhưng Heinrich Goebel có lẽ là người đầu tiên thực sự phát minh ra nó vào năm 1854. Goebel đã cố gắng bán phát minh cho Edison nhưng bị từ chối với lý do Edison không thấy sự hữu ích trong sáng chế của Goebel. Không lâu sau đó, Goebel qua đời và cũng một thời gian ngắn sau, Edison đã mua lại phát minh của Goebel từ người vợ góa nghèo khổ của ông với giá thấp hơn nhiều so với giá trị thực của nó.

Sau Goebel và một năm trước khi Edison "phát minh" ra bóng đèn của mình, Joseph Wilson Swan đã phát triển và xin cấp bằng sáng chế cho một bóng đèn có thể hoạt động được. Khi biết chắc không thể thắng kiện Swan trước tòa, Edison đã mời ông trở thành một đối tác, thành lập nên Công ty liên danh Ediswan và mua lại phát minh của Swan.

Một cách nhanh chóng, Edison giành thêm nhiều quyền lực và bỏ tiền mua chuộc, buộc Swan từ bỏ hoàn toàn mọi hồ sơ liên quan đến bóng đèn cho công ty Edison. Chắc chắn Swan được đền bù nhiều tiền, nhưng bằng cách mua lại toàn bộ hồ sơ, Edison đã đưa tên của ông trở thành nhà phát minh duy nhất trong bằng chứng nhận sáng chế bóng đèn.

http://ue.vnweblogs.com/gallery/18513/HV_01.gif


.

__,_._,___

----- Forwarded Message -----
From: Tran Ho <TranHo1@yahoo.com>
To: vbHouston dalat <vobihouston@yahoogroups.com>; chinhnghia Viet <ChinhNghiaViet@yahoogroups.com>; Huyet Hoa <HUYETHOA@yahoogroups.com>
Sent: Monday, September 5, 2011 10:46 AM
Subject: [HUYET-HOA] Những nhà phát minh dính nghi án "đạo" ý tưởng



 
 

Bai doc cuoi tuan: Ben tach tra khuya (Mang-Vien-Long_9-29-2011)


  
 
     Câu chuyện bên tách trà khuya của hai ông bạn cũ gặp nhau sau 1975. Một ông lý lịch Ngụy và một ông từ Bắc vô Nam.
Trong một đêm tâm sự, họ nhắc lại những ngày tươi đẹp khi họ còn trẻ, và những khổ đau mà họ phải gánh chịu.
Câu chuyện không có gì đặc biệt nếu không muốn nói là buồn tẻ, nhưng nếu ta bỏ chút suy ngẫm thì sẽ thấy tâm trạng của người dân dưới chế độ XHCN đã được lồng vào trong câu chuyện một cách tế nhị ...
 
(Những dòng chữ được highlighted chỉ là sự chú ý riêng của người chuyển
    handshake.gif  picture by dalatnguyen
     DNguyen
 ===============================================
 
                                     Bên Tách Trà Khuya
Mang Viên Long
 
            Nghe tiếng ông Cổn từ đầu ngõ, nhìn thấy dáng ông lừng lững  bước vào sân – ông Thạch rất ngạc nhiên. Cảm thấy lạ. Đã chạng vạng rồi, ông ấy còn tìm đến làm gì nhỉ? Bấy lâu nay gặp nhau, hẹn hoài.  Rồi trôi đi như bao việc khác đã lạnh lùng trôi đi, nhưng ông Thạch không hề trách bạn. Ông hiểu ông Cổn – coi nhau như ruột thịt, ngay từ lúc ông ta từ miền Bắc trôi dạt về quê…
Ông Thạch không còn ở nhà cũ của hai đứa con. Ông đã quyết định không về ở với đứa con nào trong hai đứa con của ông từ hơn một năm nay rồi. Ông dành dụm được chút tiền đến mua một mảnh đất nhỏ gần tám mươi mét vuông, rồi dựng tạm mái nhà tranh trong khu vườn của người bạn học cũ năm xưa đã trở lại quê chuyên nghiệp trồng trọt, chăn nnôi từ sau ngày đổi thay 30 tháng Tư năm ấy bán lại…
Trong gần 5 năm sau khi bán đi ngôi nhà ở phố san sẻ đều cho hai con – Ông đã luôn di chuyễn từ nhà đúa con gái đầu, đến nhà người con trai út – nhưng nơi ông " trụ " lại tương đối lâu hơn, vẫn là nhà của cậu An. Ì ạch chuyện thi vào đại học mấy năm vì cái lý lịch – cuối cùng, An cũng xin cắt được hộ khẩu vào học ngành Thủy sản ở Nha trang. Chuyện nuôi trồng chế biến các loại hải sản thì chắc là không ăn nhập gì đến cái lý lịch " không rõ ràng " của An về  chuyện hai hoa mai vừa nở trên ve áo ông Thạch thì đã sớm héo tàn từ năm xưa rồi! Cá- tôm, mực, cua, v v v đâu có biết gì. dính líu gì đến ý thức, quan điểm, lập trường nhỉ?  Chúng chỉ là những con vật dùng để phục vụ cho cái miệng thôi mà.
Về quê, An xin làm cho trại nuôi trồng thủy sản của huyện… Lương tuy rất thấp, nhưng cũng đủ nuôi cái miệng qua ngày…
 
Đám con ông Phúc - nhà kế  bên, cũng ì ạch chuyện lý lịch, đã liều mạng lần lượt vượt biển hết rồi. Ở trại về, gánh nặng gia đình của người vợ đã mất từ sau ngày ông lên trại 2 năm, khiến ông vừa trả hết nợ này, lại đến trả nợ khác. Lo cho hai đứa con nhỏ ăn đi học cũng đã mệt nhoài rồi, lấy " cây " đâu mà giao cho bọn chủ tàu như ông Phúc chủ hiệu vàng Thành Tín một thời lộng lẫy?  Phận nghèo, thời nào, cũng phải nhận sự khổ!
 
Người chị của An chẳng may " lọt " vào cái thời của ý đồ quay trở lại thời kỳ cải cách năm 56 theo kiểu Tàu, nên đã sớm biết phận lo tìm cho mình một cái nghề để kiếm ăn cho dầu ba năm liền cấp ba, đều là học sinh giỏi. Đạt học sinh giỏi văn cấp tỉnh. Không bước vào được ngưỡng cửa đại học, cô con gái ông không ngớt phiền trách cha từ nhiều năm sau đó. Mỗi lần nghe con hậm hực than trách, ông liền bỏ đi chơi đâu đó cả buổi không thiết làm gì nữa! Ông biết nói gì với con về cái quá khứ dài dặt và bất hạnh mà ông ( và bạn bè ông ) đã phải trải qua? Tuổi trẻ chỉ biết oán trách cái trước mắt. Chưa hề biết chia sẻ cái sau lưng. Nghĩ mà buồn.
 
Còn ông Cổn – từ miền Bắc hối hả xin về quê, không có chức danh gì mang theo ngoài quá trình 15 năm lao động giỏi ở công trường cũng vì cái " gốc " địa chủ đã khai từ thời còn đi học – nên mâm cỗ ở huyện và thị trấn không có chỗ nào dành cho ông cả, ngoài chân thủ kho hợp tác xã mua bán nhờ mấy năm sau cùng trước ngày 30 tháng 4 bị đau bệnh nên điều về sở thương nghiệp Hà Tây làm thủ kho ở dó. Về đến quê – ông biết dược chính xác người vợ cũ đã chết trong dịp tết Mậu Thân khi theo đoàn biểu tình lên phố. Đứa con trai duy nhất của ông lúc  xuống tàu còn nằm im trong bụng mẹ, đã đi lính thủy quân lục chiến, rồi lưu lạc vào nam cưới vợ, lập nghiệp - cũng không tìm ra tông tích.  Ông trở về. Gọn gàng với cái ba lô, chiếc xe đạp Phượng Hoàng, và mấy chục đồng tiền tiết kiệm. Nhưng viễn cảnh cuộc sống thì đang bề bộn ngổn ngang…
 
Tình cờ gặp ông Thạch sau hơn 21 năm ở giữa đường phố – ông Cổn không nhận ra, nếu ông Thạch không quá vui mừng dạn dĩ lên tiếng hỏi trước. Từ ngày ấy – cả hai đã coi nhau như hai anh em giống thuở còn đi học chung lớp 7 ở trường Hòa Bình.  Sau ngày người cha bị " đấu tố ", ông Cổn cũng hết đường đến trường. Gia đình ông Thạch, tuy bị xếp loại " tiểu tư sản " nhưng sau đó – xin chỉnh sửa lại là " tiểu thương" nên học hết năm lớp 8 mới nghỉ hẳn khi mẹ ông chết đi vì bệnh lao.  Họ thường lui tới thăm nhau bên tách trà ly rượu, khề khà trò chuyện mà không chút dấu diếm, sợ hãi.
 
Người vợ sau của ông Cồn ở Hà Tây nhất định không vào nam với ông khi biết rõ " chức vụ " thủ kho của ông, và hiện đang tạm trú trong một góc nhà kho chật hẹp. Hơn 20 năm phấn đấu, nhưng bản tính lờ đờ, chất phác – ông Cổn cũng không có được tấm thẻ đỏ như bao người ở Bắc về…Không có bằng cấp gì, không có thẻ đỏ, lại chẳng có người " đỡ đầu "  nữa – nên ông Cổn như bóng cây khô trơ trụi ở quê. Ông thường nói với ông Thạch.: " Mình giữ được chân thủ kho là may mắn lắm rồi còn gì? Mình phải lo giữ, để cho thiên hạ ăn mà… ". Về lại quê sau 21 năm - ông Cổn không có chút tài sản riêng nào khác như lúc ra đi năm 54. Ra đi với chiếc ba lô, trở về cũng với chiếc ba lô – nhẹ tênh…
 
Biết được ý định của ông Cổn sẽ ở lại chơi qua đêm, ông Thạch rất vui – vội xuống bếp loay hoay nấu mì sợi với trứng gà ( trứng gà của người bạn bên cạnh có thể lấy dùng rồi trả tiền sau cũng không sao). Hai tô mì sợi to súc hai quả trứng được ông Thạch dọn ra trên chiếc bàn nhỏ kê giữa sân cho thoáng mát, thay thế bữa cơm chiều muộn màng.
 
Ông Cổn nhìn tô mì bốc khói – cười thoải mái: " Trời khiến tụi mình càng lớn, ăn uống càng ít lại – chứ nếu ăn như thời trai trẻ, thì có nước…ngủ đói!  Tôi đã bao năm ngủ đói rồi…"
Anh cứ việc ăn no – Ông Thạch liếc nhìn bạn –  sâm thì không có, chứ còn mì  sợi thì nhiều lắm đấy!
Anh khỏi lo – ông Cổn vừa múc muỗng mì lên – tôi có mang theo mấy gói mì tôm tiêu chuẩn nữa đây mà! – đêm nay đói lúc nào, mình ăn lúc dó…Hà hà, vậy là nhất xứ nẫu rồi còn ai hơn?
 
Dường như bao giờ ông Cổn đến thăm ( hay gặp ở đâu đó ) cũng mở đầu bằng một hay hai bài thơ có sẵn trong túi áo đọc cho ông Thạch nghe. Ông Cổn đâm ra có " tật " làm thơ, mê thơ từ ngày được về lại quê nhà. Hình như ở vào tuổi xế chiều, và sự cô độc – dễ làm cho người ta gần gũi, gắn bó với " nàng thơ " hơn? Gặp nhau chỗ vắng, nghe ông đọc thơ còn được. Giữa phố đông người – lại mang thơ ra đọc, thiên hạ dòm ngó với đôi mắt lạ lùng, đôi lúc khiến ông Thạch rất bỡ ngõ mà không dám nói. Đêm nay – ông đem theo cả quyển vở 100 trang ghi chép đầy thơ trao cho ông Thạch : " Trong đây là tâm tình của tôi suốt bao nhiêu năm đã dược ghi lại, anh đọc thử thế nào? ". Ông Thạch cầm tập thơ, lật vào trong vài tờ - lặng lẽ đọc…
Ông Cổn vừa ăn, vừa phân trần:
Anh đọc rồi góp ý thử xem thơ tôi có …ra thơ không nhé?
Thơ là nỗi lòng, là chuyện riêng của anh – tôi làm sao biết hết mà góp ý đây? – Ông Thạch dè dặt.
Tôi biết anh lúc còn đi học đã làm thơ hay, nổi tiếng cả trường, hai mươi mốt năm vẫn làm thơ –  sao lại từ chối khéo vậy?
Tôi chưa hề nghĩ mình là " nhà thơ", mà chỉ làm thơ cho mình…Còn ai " gán cho " danh từ gì, tùy họ thôi mà!
 
Ông Cổn đặt muỗng và đũa xuống chiếc khay nhỏ - ngẩng lên, đọc thuộc lòng một bài thơ trong tập :
"Ngày đi có vợ, có con…
Ngày về vợ đã chẳng còn bên ta?
Con thì phiêu bạt phương xa,
Đời ta còn lại bóng tà cuối thôn !
Nhớ thương da diết mỏi mòn,
Tìm đâu ngày cũ? Nước non dặm dài.."
Buồn ! Ông Thạch buông thõng..
Hỏi anh, đời tôi còn lại gì để vui nữa mà không buồn?
Chứ đời tôi có hơn gì anh đâu?
Nhưng anh đáng sống hơn tôi…
Ông Thạch không cãi lại – cắm cúi ăn. Ông nghĩ, sự im lặng lúc này là nỗi chia sẻ chân tình và lớn nhất dành cho bạn.  Hai tô mì đã hết. Ông Cổn tự lo dọn bàn, còn ông Thạch vào nhà trong mang ra khay trà  và gói Basto đỏ.
 
Đêm đang lan dần ngoài ngõ vắng. Bóng tối làm cho không gian im vắng đến lạ lùng. Sự vắng lặng lạnh lẽo cuối thu nơi góc vườn nhà thôn dã có lúc tưởng như trên mặt đất này chỉ trơ trụi hai bóng người còn thức - ngồi bên nhau. Gió thu dìu dặt. Nhẹ và se lạnh. Đêm dần vào khuya. Đất trời mỏng manh, mờ mịt…
 
Hai người vô tình cùng nâng tách trà lên một lượt – nhìn nhau, uống từng ngụm nhỏ.
Ông Cổn chợt nói : " Anh lật vào bài  " Nhớ Em Ngày Ấy " xem đi! "
Ông Thạch chìu ý bạn – lật tìm bài thơ. Cất giọng đọc lớn :
" Em đến đời anh như bóng trăng,
Giữa đêm trừ tịch – buốt lòng anh..
Ánh trăng soi sáng đời anh mãi.
Một thoáng nhưng sao đẹp vĩnh hằng?
Anh tưởng đời anh đã bỏ đi,
Ngờ đâu em đến – tuổi xuân thì…
Duyên trao phận gởi, không hề tiếc
Che chở đời anh – buổi hàn vi! "
Ông Cổn  uống cạn tách trà, châm nước thêm cho mình và ông Thạch – giọng sang sảng; " Anh nhớ ngày đó gia đình tôi bị cả xóm lánh xa, như lánh xa một nguồn bệnh nguy hiểm, nhưng cô ấy đã tự nhiên đến với tôi – chẳng hề để ý gì đến mọi lời đàm tiếu, kết án của đoàn thể – tự nguyên yêu thương, và sẵn lòng về làm vợ tôi bất cứ lúc nào…thì đúng là " ánh trăng " mầu nhiệm rồi – còn gì? "
 - Vậy là đời anh cũng đã có một " ánh trăng", một mối tình quá đẹp rồi! – Ông Thạch hít một hơi thuốc, thả khói –  một đời, đôi khi có được một gặp gỡ tuyệt vời như vậy, cũng đủ rồi – anh à!
 
- Nhờ vậy tôi mới sống nổi ở ngoài đó hơn 18 năm lao động ngoài công trường quần quật đêm ngày để chờ đợi mỏi mòn ngày về được chứ anh?
Còn cô ở Hà Tây thì sao?
Năm 73 – tôi bị bệnh nặng nên được chuyễn về điều trị ở bệnh viện Hà Tây. Cô ấy là điều dưỡng…Cũng tình cờ gặp nhau rồi chung sống được mấy năm thôi!
Có con cái gì không?
Cô ấy đã lớn, khó có con – chỉ " nương tựa " nhau mà sống cho hết đời thôi…Ngặt nỗi, cô ta cũng rất xinh – nhưng thuộc thành phần tiểu tư sản nên chẳng có cán bộ cốt cán nào dám mó đến cả!
Vậy mới còn lại cho anh chứ? – Ông Thạch chợt cười, anh đã được… nhà nước " chiếu cố " lắm rồi, còn gì?
Đôi lúc, tôi cũng nghĩ như anh!
Hai bóng người ngồi bên nhau lặng lẽ.
 
Những tách trà đã cạn. Rồi đầy. Bao lần. Sự im lặng trôi qua - theo dòng, như đã chảy qua đời nhau hơn 21 năm gập ghềnh thác lũ. Họ đã còn lại, như những nhánh cây khô trôi dạt vào hốc đá –  chỉ chờ ngày rã mục.
 
Tiếng ông Cổn chợt vang lên: "À! mà anh cưới vợ vào năm nào? ".
Bảy mươi!
Muộn vậy?
Tôi nhỏ thua anh 4 tuổi mà!
Vợ của nhà thơ mà hào hoa như anh chắc là phải đẹp ?
Không đẹp lắm đâu – Ông Thạch ngập ngừng – nhưng cũng là " cái duyên " tình cờ đến với đời mình…Còn duyên thì ở, hết duyên thì đi – vậy thôi!
Tôi cũng tin vậy – ông Cổn đặt tách trà xuống – chẳng hạn như cuộc đời tôi…
 
Đêm lặng lẽ trôi qua. Mặt trăng thu 21 chênh chếch lơ lửng góc trời phía đông trông lạnh lẽo. Tiếng gà bâng quơ chợt gáy đơn độc từ góc vườn nhà người bạn như tiếng thở dài. Tắt lịm.
À! Tiếng ông Cổn bổng thốt lên – anh còn nhớ thằng Can-lùn làm lớp trưởng năm tụi mình học lớp 6 không? "
Nhớ! Can " cốt cán " mê con gái bà chủ nhà đó chứ gì?
Đúng rồi!
Mà sao?
Ra ngoài đó, được đi học – làm lớn lắm, có lần giáp mặt mình  ở Hà nội mà nó làm lơ – đã chết rồi!
Chết ở đâu?
Ngoài Bắc…
 
Ông Thạch xé bao thuốc ra, còn lại 2 điếu – chia cho ông Cổn một điếu – nhếch cười : "  Ngày xưa, có người thắp đuốc chơi đêm, vì nghĩ đời quá ngắn cũng phải. Cuộc đời ngắn ngủi thật. Hai mươi năm, rồi gần ba mươi năm – ngoảnh lại, có là gì đâu? "
Không biết anh nghĩ thế nào, chứ tôi  đêm nằm một mình nhớ lại – đúng là một giấc mộng anh à!
Vậy mà có lắm kẻ không bao giờ nghĩ được như vậy…
Họ là đám người đang say mà anh? Đã sỉn rồi, thì còn biết trời trăng gì nữa đâu?
Một cơn say dài dặc cả đời - Ông thờ dài.
Đêm sâu hút. Sương lạnh. Gió thu dạt dào, se thắt hơn.
Anh còn nhớ cô Thảo-Tây-lai không?
Biệt danh ấy làm khổ cô ta một thời rồi – anh nhắc lại làm gì?
 
Ai cũng biết Thảo đẹp, có gương mặt thanh tú , mũi, mắt giống phương Tây –  và làn da luôn trắng hồng, nhưng đâu phải là Tây-lai anh?
Đành vậy! – Thạch cười mơ hồ - anh có biết là lúc ra đi Thảo đã ở lại nhà tôi, khóc ròng một ngày không?
Có vậy sao?
Nói giỡn với anh làm gì?
Vậy là anh hạnh phúc quá rồi!
Nàng đi biệt ngay ngày hôm sau – năm 78 có về thăm quê…
Có thăm anh không?
Dĩ nhiên là có!
Rồi sao?
Nhìn nhau một lát, rồi…đường ai nấy đi thôi!
Chồng Thảo là thứ trưởng đó , ông à!
Tôi biết – Thạch  cười bâng quơ – Thảo có nói…
 
Sau khi được đi du học ở Nga về, Thảo làm ở Bộ Văn Hóa Thông Tin – và là…vợ ông thứ trưởng!
Đó cũng là một giấc mộng …
Ông Cồn búng mẫu tàn thuôc bay lên cao – vệt sáng vạch một đường cong phiền muộn…
 
Anh vào trong ngã lưng một lát đi! – Ông Thạch nói.
Còn anh?
Tôi ngồi đợi sáng…/.
 
Mang Viên Long
Ngày đăng: 29.9.2011
 
 ==================================================================
          
.

__,_._,___


----- Forwarded Message -----
From: DN <dalatnguyen@yahoo.com>
To: 
Sent: Friday, September 30, 2011 1:32 PM
Subject: [HUYET-HOA] Bai doc cuoi tuan: Ben tach tra khuya (Mang-Vien-Long_9-29-2011)

FYI
De TUY-NGHI.
       

30/09 Trùm khủng bố Anwar al-Awlaki bị giết


Thứ Sáu, 30/09/2011 20:29

(NLĐO) - Theo bộ quốc phòng Yemen, Anwar al-Awlaki, nhân vật quan trọng của al-Qaeda bị giết chết trong một đợt không kích tại Yemen.

Các quan chức Mỹ giấu tên đã xác nhận thông tin trên nhưng từ chối cung cấp chi tiết.

Theo thông báo của bộ quốc phòng Yemen thì Awlaki đã chết cùng đồng bọn. Nhưng một số nguồn tin cho AFP biết rằng Awlaki đã bị giết trong một cuộc không kích nhắm vào hai chiếc xe ở tỉnh Marib, một thành trì của al-Qaeda ở phía đông Yemen, vào sáng 30-9.
 
Anwar al-Awlaki, một trong những nhân vật chủ chốt của al-Qaeda
      
Một quan chức Mỹ giấu tên nói với hãng tin AP, Awlaki đã bị giết chết bởi máy bay không người lái của Mỹ. Tuy nhiên, thi thể của Awlaki hiện trong tay Yemen. Truyền hình Yemen thông báo rộng rãi cái chết của Awlaki.
 
Awlaki được mô tả như một nhà lãnh đạo chủ chốt của al-Qaeda ở bán đảo Ả Rập (AQAP). Trùm khủng bố này có rất nhiều biệt danh khác nhau như "Giáo chủ Hồi giáo E-mail", "Chuyên gia YouTube", "Osama Bin Laden mạng"... Awlaki bị tình báo Mỹ quy trách nhiệm tổ chức vụ xả súng giết chết 13 người tại căn cứ quân đội ở Fort Hood, Texas, vào năm ngoái và âm mưu đánh bom một chiếc máy bay hướng đến Detroit vào ngày 25-9-2009. Nước Mỹ xem Awlaki là nhân vật “đáng ngại nhất” đe dọa an ninh Mỹ.
                             
Trước đây, Bộ Quốc phòng Yemen từng một lần thông báo tiêu diệt được Awlaki nhưng sau đó thừa nhận vẫn còn sống.
Minh Khuê (Theo BBC)