|
Cho
đến bao giờ mới có được một lịch trình (road map) trên cơ sở sau
đây
? Thứ sáu, ngày 28 tháng mười năm 2011http://xuandienhannom.blogspot.com/2011/10/y-kien-cai-cach-toan-dien-e-phat-trien.htmlCải cách toàn diện để phát triển đất nước Lời giới thiệu: Xin trân trọng giới thiệu các
bạn vài ý kiến của chúng tôi về hiện tình đất nước, và suy nghĩ về sự phát triển
trong tương lai. Những ý kiến và suy nghĩ này đã được Gs Trần Văn Thọ khởi xướng
và soạn ra lần đầu cách đây khoảng 3 tháng. Bản thảo đã qua rất nhiều lần bổ
sung và chỉnh sửa, để đi đến sự đồng thuận và dung hòa những khác biệt về quan
điểm và cách nhìn giữa chúng tôi. Những ý kiến và suy nghĩ được trình bày trong
bài này đã được gửi cho giới lãnh đạo trong Đảng, Chính phủ, và Quốc hội. Mới
đây, một số báo cũng đề cập đến một số khía cạnh trong bản ý kiến của chúng tôi.
Hôm nay, chúng tôi chính thức công bố để chia sẻ cùng các bạn quan
tâm. |
Friday, October 28, 2011
Cải cách toàn diện để phát triển đất nước
Monday, October 10, 2011
Phạm Vũ Thịnh viết về Shiba Ryotaro
Shiba Ryotaro tên thật là Fukuda Tei-ichi, sinh năm 1923 ở Osaka, con thứ của một chủ nhà thuốc. Năm 1940, ông vào học khoa Ngôn ngữ Mông Cổ ở Đại học Ngoại ngữ Osaka (đọc Sử Ký của Tư Mã Thiên vào thời kỳ này). Năm 1943, bị trưng binh, sang Mãn Châu học trường huấn luyện quân sự và trấn đóng với chức tiểu đội trưởng. Năm 1945, trở về Nhật, đóng ở tỉnh Niigata rồi Tochigi.
Sunday, April 10, 2011
Murakami Haruki: Tiểu Thuyết Gia Hiện Đại Nhật Bản
Phạm Vũ Thịnh
Từ Điển Bách Khoa Columbia, ấn bản năm 2001, ghi rằng Murakami Haruki "được công nhận một cách phổ biến là một trong những tiểu-thuyết-gia-thế-kỷ-XX quan trọng nhất của Nhật Bản". Đề cập đến thời đại lắm bão tố hiện nay ở Nhật, Matsuda Tetsuo của Báo Yomiuri Shimbun, tờ nhật báo có số in lớn nhất Nhật Bản, viết: "Trong bất cứ trận bão lớn nào cũng có những nhà văn giương cao ngọn đèn soi cho quần chúng. Murakami Haruki đang và sẽ lãnh vai trò đó". Báo The Guardian ở nước Anh viết: "không có nhiều tác giả cùng thời với ông mà tác phẩm lôi cuốn được giới độc giả trẻ trực tiếp đến như thế, không chỉ trong nước ông mà còn trên khắp thế giới".
Murakami Haruki sinh năm 1949 ở cố đô Kyoto, nhưng lớn lên ở Kobe. Cha ông có thời là nhà sư, dạy văn học Nhật Bản ở cấp trung học, và mẹ ông cũng là giáo viên văn. Ngay từ thuở nhỏ, Murakami Haruki đã có khuynh hướng phản kháng đối với văn hóa truyền thống. Thay vì chia sẻ với cha mẹ sự quan tâm về văn học Nhật, ông lại tìm đọc mê mải tác phẩm của những tác giả châu Âu thế kỷ XIX: Balzac, Flaubert, Chekhov, Dostoevsky, Dickens. Sau đó, ông học tiếng Anh, và đọc nguyên tác tiếng Anh những tiểu thuyết trinh thám, khoa học giả tưởng, Truman Capote, Kurt Vonnegut, Richard Brautigan,… Ông ham mê nhạc Âu Mỹ: Elvis, Beatles, Beach Boys, nhạc Jazz,… Thế giới mới đó quyến rũ ông đến nỗi không bao lâu sau khi kết hôn với bạn đồng học Takahashi Yôko, năm 1971, ông ngưng việc học ở Đại học Waseda, cùng vợ mở một quán rượu nhạc Jazz ở Tokyo. Ở quán Jazz đó, có tên đặt theo con mèo của ông nuôi là Peter Cat, ông làm cả hầu bàn, rửa chén đĩa, thay đĩa nhạc, bố trí nhạc công, khi rảnh thì đọc rất nhiều sách và học tiếp khoá trình Đại học. Cha mẹ ông rất thất vọng về việc ông lấy vợ sớm và quay lưng lại với đời công tư chức vẫn được xem là an toàn, ổn định. Quán Jazz tồn tại được 7 năm, hai vợ chồng ông cũng đã tốt nghiệp Đại học trong khoảng thời gian đó.
Ông chỉ bắt đầu viết văn từ 1978. Khi đang xem một trận bóng chày -baseball-, ý nghĩ viết văn chợt đến với ông, như một tiếng gọi siêu hình, ông cho đó là sự kiện hạnh phúc nhất của đời ông. Tác phẩm đầu tay của ông, "Lắng nghe gió hát" (Kaze no Uta wo Kike, Hear the Wind Sing) xuất bản năm 1979, kể lại thời sinh viên tranh đấu phản kháng mà ông đã tham gia với một ít hoài nghi. Tác phẩm đầu tay này được giải thưởng "Tác giả Mới - Gunzô" ngay năm đó.
Tiếp tục thành công với hai tác phẩm sau đó và một số các truyện ngắn, ông bán quán Jazz, và trở thành một tác gia chuyên nghiệp. Ông cũng bắt đầu việc dịch sách tiếng Anh, và thường cộng tác với một giáo sư về văn học Mỹ ở Đại học Tokyo. Cùng với tiếng tăm đang lên của ông trong lãnh vực sáng tác, những tác phẩm dịch thuật của ông từ Raymond Carver, Truman Capote, F. Scott Fitzerald… cũng được đông đảo độc giả yêu thích.
Phong cách Murakami Haruki định hình từ tác phẩm thứ ba là "Cuộc phiêu lưu theo con Cừu" (Hitsuji wo Meguru Bôken, A Wild Sheep Chase) xuất bản năm 1982, được trao giải "Tác giả Mới - Noma" trong năm, pha trộn những chi tiết trinh thám đen với những ảo giác và bí mật siêu hình. Nhân vật của ông có những giá-trị-quan khác lạ với truyền thống xã hội Nhật; ham mê âm nhạc mới, phim ảnh mới Âu Mỹ. Những đặc điểm đó hấp dẫn tâm tình giới trẻ Nhật Bản đang muốn cởi bỏ những trói buộc của văn hoá truyền thống Nhật Bản. Lúc này, số in mỗi tác phẩm của ông đã đạt mức 100 ngàn bản.
Dị ứng với lối sống đua đòi vật chất trong một nền kinh tế hãnh tiến, và do chưa có con, vợ chồng ông rời Nhật sang sống ở Ý năm 1986. Ở Rome, ông viết "Rừng Na Uy" (Noruuei no Mori, Norwegian Wood), tác phẩm đã đưa ông lên địa vị "siêu sao" trong văn học Nhật Bản. Những ký ức hoài niệm trong tuổi mới lớn chen lẫn với ý thức về sự biến động đổi thay của đời sống, ý thức về sự không thể tránh được của những mất mát, là đề tài của tác phẩm, đặt trong bối cảnh thời sinh viên tranh đấu phản kháng cùng lúc với bình minh của phong trào tự do tính dục những năm cuối thập niên 60 và đầu 70. Không những độc giả cùng lứa tuổi chia sẻ được với ông những hoài niệm, mà cả giới trẻ, đặc biệt là các thiếu nữ ở lứa tuổi mười tám đôi mươi, cũng đồng cảm với ông về những trầm tư về tình yêu và đau khổ của thời mới lớn, cùng tâm trạng bơ vơ trong cuộc sống. "Rừng Na Uy" trở thành một cơn sốt, hiện diện trong cuộc sống từ quảng cáo, bánh kẹo cho đến vật dụng trong nhà; các nhà sản xuất xin làm phim; Murakami Haruki được mời làm quảng cáo truyền hình; nhạc phẩm dựa trên cuốn sách được leo lên hạng bán chạy nhất; người hâm mộ hành hương về hộp đêm ở Shinjuku được nhắc đến trong sách,… Ngay trong năm đầu tiên, "Rừng Na Uy" đã bán được 2 triệu bộ.
Sống ở châu Âu, Murakami Haruki vẫn băn khoăn về mục đích của đời sống của ông, một người Nhật, một tác giả Nhật. Hai vợ chồng lại quay về Nhật năm 1990, cao điểm của thời kinh tế bọt, mọi người giàu lên và không ngừng nói về tiền. Năm sau, ông lại khoác áo ra đi, lần này sang Mỹ làm giáo sư thỉnh giảng của Đại học Princeton hai năm, rồi hai năm tiếp theo làm Tác gia Thường trú (Writer-In-Residence) ở Đại học Tufts, Massachusetts. Hai tác phẩm nổi tiếng khác của ông được xuất bản trong thời gian này.
Tháng Giêng năm 1995, xảy ra thảm kịch động đất ở Kobe, trên sáu ngàn người chết, ba ngàn người trở thành không nhà không cửa, trong số đó có cha mẹ của ông. Hai tháng sau, lại xảy ra vụ tín đồ Chân Lý Giáo Aum thả hơi độc sarin trong tàu điện ngầm ở Tokyo làm mười hai người chết và trên hai ngàn người bị thương. Ông cho rằng hai thảm kịch này đánh dấu sự chuyển biến từ căn bản của xã hội Nhật: Ý thức an định do an toàn xã hội từ lâu nay vẫn là một biểu hiện tính ưu việt của truyền thống văn hóa Nhật Bản, được tăng cảm nhờ tình trạng không ngừng phát triển của kinh tế bọt, bỗng nhiên bị thách thức gay gắt đến độ sụp đổ theo những toà nhà Kobe trong cơn động đất. Không lâu sau đó, kinh tế bọt Nhật Bản cũng vỡ tan.
Hai cơn sốc liên tiếp này đã đưa ông trở về Nhật và là bối cảnh chính của các tác phẩm gần đây của ông. Tuyển tập truyện ngắn "Sau cơn động đất" (Jishin no Atode, After The Quake) có những nhân vật chính, do ảnh hưởng gián tiếp xa xôi của trận động đất Kobe, đã cảm nhận sâu sắc sự trống rỗng của chính mình, mất niềm tin vào sự an định của đời sống gia đình, bơ vơ đi tìm những chỗ nương tựa siêu hình. Tập "Mạch ngầm" (Andaguraundo, Underground) thoát ra khỏi thể loại tiểu thuyết, ghi những cuộc phỏng vấn trực tiếp các tín đồ Chân Lý Giáo Aum cùng những nạn nhân, những chi tiết thực tế của thảm kịch hơi độc, cho thấy tâm trạng phản kháng đối với những giá trị quan tôn thờ vật chất của xã hội hiện đại, cố gắng tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời từ những giải thuyết siêu hình, có khi cực đoan đến nỗi trở thành tội ác. Chưa đến nỗi cực đoan, nhưng những nhân vật chính của Murakami Haruki cũng chia sẻ tâm trạng đó.
Những nhân vật chính của Murakami Haruki không những chỉ hấp dẫn giới trẻ Nhật Bản đang muốn cởi bỏ những trói buộc văn hoá truyền thống Nhật Bản, mà còn cộng hưởng với tâm tình giới trẻ Âu Mỹ vì những nét quen thuộc trong lối sống, lối suy nghĩ, thị hiếu mới; và chia sẻ với giới trẻ các nước chậm tiến bộ hơn Âu Mỹ lòng ngưỡng mộ hay ước vọng về lối sống Âu Mỹ. Rất nhiều tác phẩm của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, và có nhiều người hâm mộ ở Mỹ, Anh, Nga, Đức, Pháp, Ý, Spain, Hy Lạp, Hà Lan, Phần Lan, Đan Mạch, Áo, Canada, Do Thái, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan,... Tiếng tăm của ông ở nước ngoài cộng với địa vị "siêu sao" trong nước Nhật, đã làm tăng thêm khoảng cách đối với dòng văn học truyền thống Nhật Bản vốn vẫn nghi ngờ ý đồ có vẻ tạo loạn của ông. Giải Nobel Văn học 1994 Oe Kenzaburo công kích Murakami Haruki là đã "thất bại trong việc lôi cuốn giới độc giả trí thức bằng những kiểu mẫu cho tương lai Nhật Bản" và chê ông là "hôi mùi bơ" (batakusai) vì hay dẫn dụ những chi tiết văn hóa Âu Mỹ. Điều đó dễ hiểu. Chính Murakami Haruki từ lâu vẫn tự nhận là "người dưng" (outsider) đối với xã hội Nhật Bản nói chung, vốn cứng ngắc vì những trật tự quá gò bó.
Murakami Haruki không thích sự săn đón của giới truyền thông, ông ít khi chịu phỏng vấn. Giống như giới trẻ hiện đại, thành phần độc giả chủ yếu của ông, Murakami Haruki thoải mái với quần bò, áo thun, giày thể thao, ham thích các hoạt động thể thao, tham gia nhiệt tình các kỳ chạy việt dã mỗi năm trong suốt 20 năm qua: Athens, New York (4 lần), Boston (7 lần),… Koyama Tetsurô của hãng thông tấn Kyodo News (năm 2004) nhận xét: "Hiện nay, Murakami Haruki là tác giả văn-học-thuần-túy (pure literature) duy nhất cứ mỗi lần tác phẩm mới phát hành là đạt ngôi vị sách bán chạy nhất (Nhật Bản). Tác phẩm mới nhất của ông là "Kafka Bên Bờ Biển -Umibe no Kafuka" ngay trong tháng đầu tiên (tháng 9, 2002) đã bán được 600 ngàn cuốn".
Tạp chí The New York Times số ra ngày 11/12/2005 trong mục bình chọn 10 tác phẩm văn học xuất sắc nhất thế giới trong năm 2005 đã nêu tên cuốn "Kafka On The Shore - Umibe no Kafuka - Kafka Bên Bờ Biển" của Murakami Haruki đầu tiên, tán thưởng rằng đây là công trình của một tác gia đường đường tự tín.
Tác phẩm này cũng đã giúp Murakami Haruki đoạt Giải thưởng văn học Franz Kafka của Tiệp Khắc năm 2006. Ông là tác gia thứ 6 được giải, trong số đó có nhà văn Mỹ Philip Roth.
Ngày 25 tháng 9, 2006, Giải thưởng quốc tế đắt giá nhất về truyện ngắn Frank O'Connor năm 2006 đã được trao cho Murakami Haruki. Hội đồng thẩm định đánh giá cao "tài năng hiện đại trong việc sáng tạo những độc thoại triền miên về nỗi sợ hãi", "những tình tiết đào sâu xuống nhiều tầng ý nghĩa".
Ngày 15 tháng 2, 2009, Murakami Haruki nhận Giải thưởng văn học của Israel, khẳng định "luôn luôn chọn đứng về phía quả trứng" "là những thường dân không võ trang bị cán bẹp, bị đốt cháy, bị bắn chết" "đối đầu với bức tường cao và kiên cố" "là Guồng máy" có "oanh tạc cơ, xe tăng, phi đạn, bom lân tinh" "vốn là để bảo vệ chúng ta, nhưng thỉnh thoảng lại tự ý hành động, bắt đầu giết hại chúng ta và bắt chúng ta phải giết hại người khác một cách tàn nhẫn, hữu hiệu và có hệ thống."
Murakami Haruki hiện đang sống ở Boston, Mỹ, làm việc với Ðại học Harvard, và giảng diễn tại các cơ sở văn hoá giáo dục trong vùng đất có truyền thống văn hoá lâu đời nhất nước Mỹ.
Tác phẩm "Rừng Na-Uy" đã được quay thành phim với đạo diễn Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng năm 2011, được đề cử tranh giải Phim ảnh Á châu - Asian Film Awards cho 3 bộ môn Quay phim đẹp nhất, Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất và Thiết kế trang phục đẹp nhất.
Tác phẩm mới nhất của ông là bộ ba tập "1Q84" xuất bản năm 2009-2010, đã bán được trên 4 triệu cuốn, bản dịch Anh ngữ dự định phát hành tại Mỹ vào tháng 10 năm 2011.
Murakami Haruki là tác gia Nhật Bản đương đại được biết đến nhiều nhất trên thế giới, những năm gần đây liên tục được đề cử tranh giải Nobel văn học với suất thắng tăng tiến trên 1 ăn 7. Ở Việt Nam, hầu hết các tập truyện dài, truyện ngắn của ông đã được dịch và xuất bản.
Sydney 03/11
Tham khảo:
[1] Richard Williams: "Marathon man", The Guardian, 17/05/2003.
[2] Mick Brown: "Tales of the unexpected", The Daily Telegraph, filed 15/08/2003.
[3] Mục "Murakami Haruki", The Columbia Encyclopedia, 6th Edition, 2001.
[4] Velisarios Kattoulas: "Pop Master", Times Asia, 25/11/2002.
[5] Laura Miller: "The Outsider", The Salon Interview, 16/12/1997.
[6] 5 tập truyện ngắn của Murakami Haruki: "Ðom Ðóm", "Ngày Ðẹp Trời Ðể Xem Kangaroo", "Sau Cơn Ðộng Ðất", "Bóng Ma Ở Lexington", "Người Ti-Vi", Phạm Vũ Thịnh dịch từ nguyên tác, Nhà xuất bản Ðà Nẵng 2006, 2007.
Phạm Vũ Thịnh viết về Shiba Ryotaro
Shiba Ryotaro tên thật là Fukuda Tei-ichi, sinh năm 1923 ở Osaka, con thứ của một chủ nhà thuốc. Năm 1940, ông vào học khoa Ngôn ngữ Mông Cổ ở Đại học Ngoại ngữ Osaka (đọc Sử Ký của Tư Mã Thiên vào thời kỳ này). Năm 1943, bị trưng binh, sang Mãn Châu học trường huấn luyện quân sự và trấn đóng với chức tiểu đội trưởng. Năm 1945, trở về Nhật, đóng ở tỉnh Niigata rồi Tochigi.
Từ năm 22 tuổi, bắt đầu viết văn dưới hình thức thư cho chính mình. Sau Thế chiến, vào làm ký giả cho tờ Shin Sekai rồi Nhật báo Sankei, ở đấy đã có nhiều bài viết xuất sắc, và thăng lên các chức vụ cao cấp.
Năm 1955 xuất bản "Meigen Zuihitsu - Sarari-man" (Tùy bút danh ngôn cho các tư chức) với tên thật. Bút hiệu Shiba Ryotaro bắt đầu được dùng từ tác phẩm "Perusha no genjutsushi" (Nhà ảo thuật xứ Phổ) năm 1956 được giải thưởng Kodan Club, mở đầu giai đoạn được độc giả yêu chuộng tán thưởng. Cùng năm đó, đã sáng lập tạp chí văn học "Kindai setsuwa" (Cận đại thuyết thoại).
Năm 1959, xuất bản "Fukuro no shiro" (Thành quách của chim cú) được Giải Naoki, giải thưởng Văn học cao quý nhất chung cho các thể loại văn học của Nhật Bản. Hai năm sau, ông nghỉ việc ở toà soạn Nhật báo Sankei, trở thành tác gia chuyên nghiệp.
Thoạt đầu, ông đã viết những tiểu thuyết truyền kỳ và thử viết cả truyện trinh thám nữa, nhưng từ năm 1962, các bộ truyện "Ryoma ga yuku" (Long Mã lên đường), "Moeyo ken" (Kiếm ơi, cháy lên) đã được nhiệt liệt hoan nghênh, mở đầu sự nghiệp lớn của một tác gia truyện lịch sử bậc nhất Nhật Bản.
Năm 1966, được giải Kikuchi Kan; 1972, được giải Yoshikawa Eiji với trường thiên "Yo ni sumu hibi" (Những ngày sống trên đời); 1976, được giải thưởng của Viện Nghệ thuật Nhật Bản; 1981, trở thành hội viên của Viện Nghệ thuật Nhật Bản; 1991, được vinh danh là người có công lao văn hoá đối với quốc gia; 1993 được Huân chương Văn hoá.
Năm 1996, chết vì vỡ động mạch ở bụng, hưởng dương 73 năm. Lễ truy điệu ông đã có 3 ngàn người tham gia, và ông được truy tặng hàm Tòng Tam phẩm. Năm 1997, giải thưởng văn học Shiba Ryotaro được thiết lập, rồi năm 2001, viện bảo tàng Shiba Ryotaro được khánh thành.
Số in tất cả các tác phẩm của ông ở Nhật Bản đã đạt mức vài trăm triệu cuốn.
Nhiều tác phẩm trường thiên của ông: "Kunitori monogatari" (Chuyện cướp nước), "Ryoma ga yuku" (Long Mã lên đường), "Moeyo ken" (Kiếm ơi, cháy lên), "Saka no ue no kumo" (Mây trên đường dốc)... đã được thực hiện thành những bộ phim lớn như loại phim-bộ Taiga Drama (Đại Hà Drama - phim kịch tràng giang, cần nhiều tiền quay và giờ chiếu) trình chiếu trên đài Truyền hình Quốc gia Nhật Bản NHK. Ông còn viết nhiều tiểu luận về lịch sử địa dư được yêu thích, trong đó có bộ sách những tiểu luận du ký "Kaido wo yuku" (Đi trên đường cái quan) đồ sộ, ghi lại những tư liệu, cảm nghĩ, nhận định về các nơi ông đã đến thăm ở Nhật Bản và nước ngoài.
Ông là một tác gia có sức sáng tác mạnh, đọc nhiều hiểu rộng, có quan sát và suy luận tinh tế, đã đưa ra nhiều quan điểm mới có tính thuyết phục về những sự kiện lịch sử Nhật Bản, đặc biệt là các giai đoạn loạn lạc, chuyển biến kinh thiên động địa như thời Chiến quốc, cuối thời Mạc phủ, hay thời Minh Trị Duy Tân.
Trọng tâm của phần lớn các tác phẩm của ông là những anh hùng thời loạn, tự lập thân từ cảnh ngộ khốn cùng, có cá tính mạnh mẽ, đầu óc sắc bén và hành động cách mệnh. Ông mô tả những nhân vật anh hùng ấy với lòng ngưỡng mộ lẫn yêu mến thân cận, truyền nhiễm sang độc giả. Ông chuộng lối dùng sự kiện để mô tả nhân vật chứ không tập trung trình bày tâm lý hay cá tính. Chi tiết chính sử luôn luôn kèm theo những giai thoại dân gian, truyền thuyết, cả những kinh nghiệm và kiến giải sử quan của tác giả giúp cho tác phẩm thêm sống động. Lắm lúc, những chi tiết bên lề hay sự việc xảy ra trong thời hiện đại có dính dáng ít nhiều đến nhân vật hay con cháu của họ cũng được đưa vào, như để giữ sự liền lạc giữa lịch sử và hiện thực. Các địa phương, các dữ kiện địa lý được ông điều tra nghiên cứu thật kỹ để dùng làm bối cảnh rất thuyết phục cho câu chuyện ông kể.
Có thể nói Shiba Ryotaro có sắc thái học giả đậm đà hơn là nhà tư tưởng, bởi ông chuộng việc khảo chứng sự thật lịch sử bằng tư liệu, di tích, di vật, kiến văn, hơn là lý thuyết hay quan niệm về lịch sử. Bất bình với lập trường của Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai, ông thiên về chủ nghĩa hợp-lý-hoá đối lập với những xu hướng giải thích lịch sử ra dáng triết học theo chủ nghĩa thần bí mà ông cho là phi luận lý và bất hợp lý. Vì thế mà ông ưa chuộng những nhân vật thể hiện được chủ nghĩa hợp-lý-hoá ấy, chẳng hạn trong tác phẩm "Moeyo ken" (Kiếm ơi, cháy lên), tuy cùng là đầu não của Shinsengumi (đội võ trang truy diệt chí sĩ Cần Vương cuối thời Mạc Phủ) cả, nhưng nhân vật chủ tướng Kondo Isami đến cuối đời vẫn còn băn khoăn về sự lựa chọn giữa tư tưởng Cần Vương (phò Thiên hoàng) và Tá Mạc (phò Mạc Phủ Tokugawa), không được Shiba Ryotaro chú trọng bằng nhân vật phó tướng Hijikata Toshizo là người có đầu óc thực dụng triệt để.
Trong một cuộc phỏng vấn của đài ti-vi NHK, ông cho biết thời trẻ đã thấy tình trạng Nhật Bản chiến bại mà mang nghi vấn tại sao người Nhật Bản lại trở nên kém khôn ngoan như thế, hẳn là ngày xưa phải khôn ngoan hơn, do đó từ năm 22 tuổi (1945), đã bắt đầu viết văn dưới hình thức thư cho chính mình, trong cố gắng tìm hiểu bản chất của người Nhật Bản từ những sự kiện và nhân vật lịch sử, từ đó mới có các tác phẩm "Ryoma ga yuku" (Long Mã lên đường), về thời động loạn dẫn đến Minh Trị Duy Tân, hay "Saka no ue no kumo" (Mây trên đường dốc) về chiến tranh Nga Nhật...
Trước Shiba Ryotaro, tiểu thuyết lịch sử Nhật Bản phần nhiều nhắm vào mục đích mua vui cho độc giả bằng cách cường điệu những chi tiết ly kỳ thậm chí huyền thoại hoá. Shiba Ryotaro đặc biệt chú trọng việc khảo chứng, dùng sử liệu khả tín yểm trợ để tiểu thuyết lịch sử của ông có thể được cả giới độc giả trí thức Nhật Bản tin cậy mà thưởng lãm. Ông được biết là tác gia điều nghiên dẫn dụng một số tư liệu lớn lao cho mỗi tác phẩm của mình. Tác phẩm của ông, nhất là các bộ phim ti-vi tràng giang trên đài NHK, đã khiến độc giả, khán giả ưa chuộng và tin tưởng đến mức dễ đồng lòng với lối giải thích lịch sử nay đã nổi tiếng là "sử quan Shiba". Và mặc dù Shiba Ryotaro đã khẳng định tác phẩm của mình là "tiểu thuyết", nhưng nhiều chi tiết truyền thuyết trong tác phẩm của ông lắm khi cũng được độc giả tin tưởng như sự thực lịch sử, là điều mà các nhà phê bình lên án, nhưng cũng phần nào cho thấy mức độ thành công của Shiba Ryotaro là một tác gia tiểu thuyết lịch sử.
Shiba Ryotaro là tác gia được giới doanh gia Nhật Bản hâm mộ nhất; họ tìm thấy trong tác phẩm của ông sự khích lệ, động viên tinh thần, và nhiều chiến thuật chiến lược có thể áp dụng vào kinh doanh.
Ông là người có tài biện thuyết, thường được mời đến các buổi đàm thoại, hội thảo văn học, lịch sử. Lòng ham mê thu tập tư liệu của ông đã trở thành huyền thoại. Người ta đồn khi nào Shiba Ryotaro tìm kiếm tư liệu về đề tài gì thì sách cũ về đề tài đó biến mất hết từ các nhà sách cũ. Có lần ông đã mang xe tải nhỏ đến tiệm sách cũ, vào trong tiệm lục lọi, đọc loạn lên rồi chất đống lên xe tải mà mua về.
Shiba Ryotaro đã xuất bản hàng trăm tác phẩm, trong đó vài chục tác phẩm đã được quay thành phim-bộ ti-vi và phim chiếu ngoài rạp.
"Ryoma ga yuku" (Long Mã lên đường) là tác phẩm nổi tiếng nhất của Shiba Ryotaro, viết về con người và cuộc đời của nhà cách mệnh Sakamoto Ryoma (Long Mã),một trong những chí sĩ đã mở ra kỷ nguyên Duy Tân, trong bối cảnh cuối thời Mạc Phủ Tokugawa, áp lực của các nước ngoài khuấy động xã hội và thể chế chính trị của Nhật Bản, khiến nảy sinh hai khối tư tưởng và thế lực Cần Vương Nhương Di (phò Thiên hoàng đánh đuổi người ngoại quốc) đối lập với Tá Mạc (phò Mạc Phủ Tokugawa nhân nhượng ngoại quốc). Ryoma đã là một sĩ phu của phiên trấn Tosa, chuyển từ việc lập thân bằng kiếm thuật sang việc sáng lập tập đoàn mậu dịch tổng hợp Kaientai, qua chuyện kinh doanh mà liên kết các phiên trấn Satsuma, Choshu, Tosa,... xây dựng thành liên minh Cần Vương, cuối cùng đánh đổ Mạc Phủ, chấm dứt gần 300 năm cai trị của nhà Tokugawa, mở đường cho Minh Trị Thiên hoàng bắt đầu công cuộc Duy Tân. Ryoma đã sớm nhận thức được là phải bỏ ý hướng đánh đuổi người ngoại quốc mà mở cửa du nhập học vấn, kỹ thuật Tây phương vào Nhật Bản. Ông dâng "Thuyền trung bát sách" (8 kế sách nghĩ từ trong thuyền) làm nền tảng cho các cải cách chính trị kinh tế thời Minh Trị Duy Tân. Tư tưởng Cần Vương của Ryoma còn hàm ý "vạn dân bình đẳng", dưới Thiên hoàng chỉ có thần dân, không còn sự phân chia giai cấp "sĩ nông công thương" ngặt nghèo thời trước nữa.
"Moeyo ken" (Kiếm ơi, cháy lên) là chuyện đời của Hijikata Toshizo, phó tướng của Shinsengumi là đội võ trang do Mạc Phủ chiêu mộ các võ sĩ mất chủ tướng (ronin) mà lập ra để truy lùng tiêu diệt các chí sĩ Cần Vương mượn cớ đánh đuổi người ngoại quốc để mưu đồ đánh đổ Mạc Phủ, thực tế là đã khuấy động kinh đô Kyoto. Về sau, Mạc Phủ yếu thế phải giao trả chính quyền lại cho triều đình, rồi bị thảo phạt, quân Mạc Phủ thua trận, phải chạy về Edo. Chiến tranh giữa quân triều đình thảo phạt và quân cựu gia thần của Mạc Phủ bùng nổ khắp vùng phía đông Nhật Bản, Kondo Isami, chủ tướng của Shinsengumi đầu hàng và bị xử tử; phó tướng Hijikata Toshizo lưu lạc theo bại binh phe Mạc Phủ lên Hokkaido tiếp tục kháng chiến rồi tử trận ở đấy.
"Yo ni sumu hibi" (Những ngày sống trên đời) viết về thầy trò Yoshida Shoin và Takasugi Shinsaku. Yoshida Shoin là một trong những nhà trí thức nổi danh nhất cuối thời Mạc Phủ, đã mở trường dạy binh học và chính trị, đào tạo nhiều chí sĩ sau này đã góp sức hữu hiệu vào việc đánh đổ Mạc Phủ và đổi mới nước Nhật. Takasugi Shinsaku là học trò cưng của Yoshida Shoin, đã cải tiến quân đội phiên trấn Choshu trong liên minh Cần Vương đánh đổ Mạc Phủ, và khởi đầu việc lập các lực lượng võ trang từ những người chí nguyện không thuộc giai cấp võ sĩ. (Ito Hirobumi 4 lần làm Thủ tướng Nhật Bản, cũng là học trò của Yoshida Shoin).
"Kashin" (Thần hoa) là chuyện đời của Omura Masujiro (Murata Zoroku), con của một thầy lang vườn ở Suo, phiên trấn Choshu, đã theo đuổi y học Hà Lan, sau này vừa dạy kiến thức Tây phương vừa xây dựng, cải tiến binh bị của phiên trấn Uwajima, rồi trở thành phiên sĩ (sĩ phu, võ sĩ có chức vị) của phiên trấn Choshu, làm cố vấn cải cách binh bị theo kiểu Tây phương. Thời Minh Trị, làm đến chức Thứ trưởng Bộ Hải-Lục quân, ông được xem là người khai sáng quân đội hiện đại Nhật Bản.
"Kunitori monogatari" (Chuyện cướp nước) thuật chuyện thời Chiến quốc, Nhật Bản loạn lạc vì nạn các sứ quân tranh đoạt lãnh thổ, Saito Dosan lập thân từ một nhà sư chuyển sang buôn dầu rồi cướp chính quyền xứ Mino, thành Lãnh Chúa một phiên trấn lớn. Sau này con rể của ông là Oda Nobunaga đã thực hiện được giai đoạn đầu của việc thống nhất Nhật Bản, chấm dứt thời Chiến quốc của các sứ quân.
"Saka no ue no kumo" (Mây trên đường dốc) là chuyện lớp người trẻ Nhật Bản thời Minh Trị Duy Tân đã ý thức được nghĩa vụ xây dựng quốc gia đồng thời xây dựng chính mình, trong hoàn cảnh lịch sử cam go khi nền tảng quốc gia cũ đã đổ vỡ hoàn toàn. Với khí phách của những người tiên phong khai phát, họ đã cần mẫn và dũng cảm đối đầu với mọi khó khăn để khai thông những đường tiến mới, cải cách hải quân, kỵ binh, văn học nghệ thuật hiện đại, đặt nền tảng mới xây dựng một quốc gia Nhật Bản tân tiến. Chiến tranh Nga-Nhật chiếm một phần quan trọng trong tác phẩm, như thực chứng cho thành quả của công cuộc Duy Tân. Những quan điểm của tác giả trình bày trong tác phẩm này (sử quan Shiba) rằng chiến tranh Nga-Nhật thực chất là chiến tranh tự vệ của Nhật Bản; trong trận tấn công Lữ Thuận, sở dĩ quân Nhật thiệt hại nặng đến như thế là vì tướng chỉ huy và các tham mưu bất tài... đã gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu lịch sử.
.........
Nhiều tác phẩm của Shiba Ryotaro đã được dịch và yêu thích ở Hàn quốc, Trung quốc. Một số tác phẩm của Shiba Ryotaro đã được dịch ra tiếng Anh, trong đó có "Drunk as a Lord: Samurai Stories" (2001), "Kukai the Universal: Scenes from His Life" (2003), "The Last Shogun: The Life of Tokugawa Yoshinobu" (2004), "The Tatar Whirlwind: A Novel of Seventeenth-Century East Asia" (2007)... Shita Ryotaro để lại cho đời một số lượng đồ sộ những tác phẩm dài hơi, xây dựng công phu, vừa có giá trị tư liệu lịch sử vừa có giá trị nghệ thuật, lẫn giải trí, xứng đáng là tác gia hạng nhất của Nhật Bản về tiểu thuyết lịch sử.
Phạm Vũ Thịnh
Sydney 03-2008
