Cho
đến bao giờ mới có được một lịch trình (road map) trên cơ sở sau
đây
?
Thứ sáu, ngày 28 tháng mười năm 2011http://xuandienhannom.blogspot.com/2011/10/y-kien-cai-cach-toan-dien-e-phat-trien.htmlCải cách toàn diện để phát triển đất nước
Lời giới thiệu: Xin trân trọng giới thiệu các
bạn vài ý kiến của chúng tôi về hiện tình đất nước, và suy nghĩ về sự phát triển
trong tương lai. Những ý kiến và suy nghĩ này đã được Gs Trần Văn Thọ khởi xướng
và soạn ra lần đầu cách đây khoảng 3 tháng. Bản thảo đã qua rất nhiều lần bổ
sung và chỉnh sửa, để đi đến sự đồng thuận và dung hòa những khác biệt về quan
điểm và cách nhìn giữa chúng tôi. Những ý kiến và suy nghĩ được trình bày trong
bài này đã được gửi cho giới lãnh đạo trong Đảng, Chính phủ, và Quốc hội. Mới
đây, một số báo cũng đề cập đến một số khía cạnh trong bản ý kiến của chúng tôi.
Hôm nay, chúng tôi chính thức công bố để chia sẻ cùng các bạn quan
tâm.
Xin nói ngay và nhấn mạnh
rằng đây không phải là bản kiến nghị, mà là một bản phân tích. Chúng tôi phân
tích những diễn biến trong thời gian qua liên quan đến kinh tế, đối ngoại, giáo
dục, khoa học, y tế, và văn hóa. Từ những kết quả phân tích, chúng tôi xác định
một số nguyên nhân chủ yếu, và phát biểu một số suy nghĩ về định hướng phát huy
những thế mạnh và khắc phục những yếu kém trong tương lai, nhằm đưa đất nước
tiến vào một thời kì phát triển mới. Cố nhiên, những lĩnh vực chúng tôi chọn để
phân tích và phát biểu có thể không đầy đủ, hoặc những nhận xét của chúng tôi
không có gì “mới”, nhưng đây là một nỗ lực tập thể nhằm hệ thống hóa, bổ sung và
làm mới những gì các lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhân sĩ và trí thức đã phát biểu
trong quá khứ.
Chúng tôi nghĩ rằng là người Việt không ai mà không
muốn đất nước mình phát triển nhanh và bền vững. Nhưng nhìn qua các nước chung
quanh có cùng văn hóa và điều kiện phát triển, chúng ta phải chạnh lòng thú nhận
rằng những thành tựu đạt được trong thời gian qua ở nước ta chưa tương xứng với
tiềm năng của dân tộc, và nhất là chưa tương xứng với sự hi sinh to lớn của hàng
triệu người trong hai cuộc chiến vừa qua. Chúng tôi hi vọng rằng những phân tích
và suy nghĩ trình bày trong bài này sẽ giúp cho mỗi chúng ta nhìn lại để — nói
như lời kết của bản ý kiến là — “mở ra con đường mới để dân tộc tiến nhanh về
phía trước, để đất nước phát triển nhanh chóng, giàu mạnh và tự
chủ.”
Nguyễn Văn Tuấn
===================
Ý kiến: Cải cách toàn diện để phát triển đất nước
Các tác
giả:
Hồ Tú Bảo, Nguyễn Tiến Dũng, Trần Hữu Dũng, Giáp Văn
Dương, Nguyễn Ngọc Giao, Ngô Vĩnh Long, Vĩnh Sính, Nguyễn Minh Thọ, Trần Văn
Thọ, Cao Huy Thuần,
Nguyễn Văn Tuấn, Hà Dương Tường, Vũ Quang Việt, Phạm Xuân Yêm
Nội dung
Tóm tắt
Tóm tắt:
Việt Nam chúng ta đang đứng trước một khúc ngoặt lịch
sử. Theo dõi những diễn tiến của xã hội Việt Nam, đặc biệt trong những năm gần
đây, chúng tôi thật sự lo âu về tương lai của đất nước. Bản ý kiến này không nêu
lại những thành tựu Việt Nam đã đạt được, mà tập trung vào vấn đề nội lực Việt
Nam đang suy yếu: Kinh tế bấp bênh, giáo dục và y tế xuống cấp, khoa học và công
nghệ non yếu, đạo đức xã hội suy thoái, tham nhũng tràn lan, bộ máy nhà nước
nhiều bất cập. Trong lúc đó, kinh tế ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc và đe dọa
về an ninh từ nước láng giềng phương Bắc ngày càng rõ nét.
Năm 2008 lần đầu tiên thu nhập đầu người của Việt Nam
vượt qua ngưỡng 1.000 USD, thoát ra được vị trí của nước thu nhập thấp. Nhưng ta
đã mất gần 35 năm kể từ khi đất nước thống nhất, nếu kể từ khi đổi mới cũng gần
một thế hệ mới đạt được thành quả còn khiêm tốn này. Trong cùng thời gian đó,
nhiều nước ở châu Á đã đạt thành quả được cả thế giới ngưỡng mộ. So với các nước
trong vùng và trên thế giới có cùng điều kiện phát triển trước đây, nước ta hiện
nay vẫn còn ở vị trí rất thấp trong hầu hết mọi lĩnh vực, từ kinh tế, giáo dục
đến khoa học. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà
Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra vẫn còn rất xa. Hiện nay chưa có dấu hiệu cho thấy
Việt Nam có thể đạt mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm
2020.
Khi phân tích vấn đề, chúng tôi thấy có hai nguyên nhân
sâu xa, liên quan đến thể chế nói chung, và cơ chế tuyển chọn người lãnh đạo và
quản lý nhà nước nói riêng.
Thứ nhất, thể chế còn thiếu dân chủ. Có thể nói rằng
thể chế hiện nay là di sản của thời chiến tranh, bao cấp và chủ nghĩa xã hội
kiểu Lênin-Stalin, với đặc điểm cơ bản là hạn chế dân chủ, hạn chế tự do tư
tưởng, thiếu tinh thần thượng tôn pháp luật. Hệ quả là xã hội suy giảm tính năng
động và hiệu quả, hạn chế sáng tạo trong khoa học và giáo dục, không chống được
suy thoái giá trị đạo đức và văn hóa, bất công và cách biệt xã hội tăng lên, và
không khuyến khích việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước để
phát triển. Chế độ tiền lương bất hợp lí trong cơ chế “xin cho” đã đẩy nhiều
công chức vào con đường tham nhũng, và làm cho nhiều nhà giáo, bác sĩ, nhà khoa
học,… không chuyên tâm với nghề nghiệp và không giữ được đức tính cao đẹp vốn có
từ xưa. Hoàn toàn đáng lo ngại khi thể chế hiện nay đang hạn chế sức mạnh của
đất nước và làm lung lay nền tảng của xã hội.
Thứ hai, là hệ quả của nguyên nhân thứ nhất, trong
thành phần lãnh đạo đất nước chưa có nhiều người tài giỏi, bản lĩnh, chịu trách
nhiệm cao và quy tụ được bên mình những trí thức và cộng sự chân chính. Từ trung
ương đến địa phương, nhiều quan chức thiếu cả năng lực và đạo đức cần thiết.
Tình trạng bằng cấp giả và chạy chức chạy quyền đã trở thành vấn nạn nhức nhối.
Việc lợi dụng vị trí công quyền để trục lợi cá nhân đang là hiện tượng phổ biến
ở nhiều cán bộ nhà nước.
Theo chúng tôi, phải có một cuộc cải cách mang tính
cách mạng về thể chế mới giải quyết được hai vấn đề này. Chúng tôi nghĩ rằng
trách nhiệm này trước hết thuộc về đảng cầm quyền và trên thực tế hiện nay cũng
chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới đảm nhận được vai trò này.
Vì vậy, chúng tôi đề nghị Đảng Cộng sản Việt Nam xem
xét thực hiện 8 điểm sau:
1. Kiên quyết xây dựng nhà nước dân chủ pháp
quyền.
Không có ai và tổ chức nào đứng trên và đứng ngoài
pháp luật. Để thực hiện được điều này, cần triệt để tôn trọng Hiến pháp và
đảm bảo sự thực thi Hiến pháp theo tinh thần hiến pháp là trên hết. Đồng thời,
cần có cơ chế kiểm soát quyền lực, cần có hệ thống tòa án độc lập để chế tài
được các hành vi lạm dụng quyền hành, tham nhũng, làm giàu bất chính và ức hiếp
dân chúng.
Triệt để dân chủ hóa, đúng như mục tiêu mà Hiến pháp
đề ra. Đảng cần chứng minh bằng hành động thực tế rằng đó không phải là khẩu
hiệu mà chính là thao thức thường xuyên của lãnh đạo, của các cơ quan công
quyền. Để thực hiện dân chủ trong khuôn khổ pháp lý hiện nay, cần thật sự triển
khai và áp dụng nội dung của Hiến pháp. Trước hết, phải thật sự tôn trọng các
quyền mà Hiến pháp đã ghi rõ, đặc biệt là quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận,
và được quyền lập hội, quyền biểu tình trong khuôn khổ pháp luật, và quyền bình
đẳng trước pháp luật.
Pháp luật nhằm bảo đảm quyền tự do của người này
không xâm phạm đến quyền tự do của người khác chứ không phải nhằm hạn chế hoặc
triệt tiêu tự do. Tất nhiên, tự do cá nhân phải tôn trọng lợi ích tập thể,
nhưng không nên viện lợi ích tập thể với mục đích triệt tiêu tự do. Cụm từ
“theo quy định của pháp luật” phải được hiểu trong tinh thần đó để các
quyền được Hiến pháp công nhận có giá trị thực sự chứ không phải chỉ có tính
cách lý thuyết. Hiện nay, không thiếu thí dụ luật được viết nhằm hạn chế quyền
công dân được ghi trên Hiến pháp. Thí dụ điển hình là luật bầu cử và Quyết định
97. Luật bầu cử hạn chế quyền ứng cử của công dân vì đòi hỏi người tự ứng cử
phải được Mặt trận Tổ quốc thông qua. Quyết định 97 của Thủ tướng nhằm hạn chế
quyền phản biện chính sách của trí thức. Thật ra, tất cả các quyền của công dân
đều đã nằm trong Hiến pháp Việt Nam, chỉ cần triển khai và thật sự áp
dụng.
Cần bảo đảm nền móng của dân chủ: đó là tự do ngôn
luận. Quyền tự do ngôn luận mà Hiến pháp đã ghi rõ cần đi vào thực chất với
việc bảo đảm tính công khai và minh bạch của các hoạt động công quyền và quyền
tranh luận của xã hội và công dân đối với những hoạt động đó. Những hạn chế cần
thiết của tự do ngôn luận, như các bí mật quốc gia (thuộc phạm vi hình sự) hay
bí mật kinh doanh, đời tư của công dân (dân sự), phải được ghi rõ trong các đạo
luật (được quốc hội thông qua) chứ không phải là qua các nghị định, quyết định
của hành pháp.
2. Tiếp thu các tư tưởng tiến bộ nhằm thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Không nên tự ràng buộc vào một ý thức hệ duy nhất. Chủ
tịch Hồ Chí Minh nếu chỉ biết học thuyết Mác-Lênin, không tiếp thu mọi tư tưởng
tiến bộ của thế giới thì đã không viết được bản Tuyên ngôn độc lập gói ghém
những giá trị phổ quát của nhân loại. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” là rất hợp lòng dân. Các hệ tư tưởng là công cụ nhằm
giúp đạt mục tiêu trên. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy một xã hội muốn phát
triển cần có tự do tư tưởng và tự do ngôn luận do đó cần thoát khỏi sự ràng buộc
vào một ý thức hệ duy nhất. Ra khỏi sự ràng buộc vào ý thức hệ đó cũng sẽ cho
thấy Việt Nam độc lập với Trung Quốc về mặt tư tưởng và đi trước Trung Quốc về
cải cách thể chế.
3. Xây dựng một nhà nước vững mạnh bằng cách minh
bạch hóa việc bổ nhiệm các chức vụ cao cấp, thực hiện việc tuyển chọn công chức
theo qui trình khách quan dựa trên khả năng, cải cách chế độ tiền lương cho hợp
lý.
Nêu cao trách nhiệm cá nhân trong hệ thống công
quyền. Tất cả công chức và người lãnh đạo trong hệ thống nhà nước
phải chịu trách nhiệm cá nhân về nhiệm vụ của mình, không được ẩn náu dưới danh
nghĩa trách nhiệm tập thể. Cơ chế tập trung dân chủ khi đem áp dụng trong việc
điều hành chính phủ đã bị nhiều người lợi dụng để bao biện cho thói vô trách
nhiệm, ỷ lại, đổ lỗi cho tập thể, cơ hội, bè phái, “cha chung không ai khóc”.
Ngoài ra, cần xây dựng cơ chế tách bạch sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của
Nhà nước để tránh sự chồng chéo, áp đặt, kém hiệu quả.
Minh bạch hóa trong bổ nhiệm tất cả các chức vụ, kể
cả vị trí cao cấp. Tạo cơ chế công khai và dân chủ hóa để có thể tuyển chọn
những nhà lãnh đạo tài đức và đáp ứng được đòi hỏi của dân tộc, được dân tin
tưởng và được thế giới nể trọng. Không nên tiếp tục cách làm hiện nay là dàn xếp
trong nội bộ Đảng rồi đưa ra Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm. Những người đủ tài
đức nhưng không phải đảng viên cũng cần được xem xét bổ nhiệm vào các vị trí
quan trọng. Chính phủ Hồ Chí Minh sau Cách mạng Tháng tám cũng đã có phương châm
này.
Xây dựng bộ máy công chức làm việc có trách nhiệm và
hiệu quả, và có cơ chế tuyển chọn khách quan dựa trên tài năng chuyên môn.
Hiệu suất của bộ máy công quyền là điều kiện tối cần thiết để kinh tế, giáo dục,
văn hóa phát triển nhanh và lành mạnh. Cho nên, việc tuyển chọn công chức phải
dựa trên tiêu chí chuyên môn và đạo đức, độc lập với quan điểm chính trị ở nhiều
loại công việc.
Cải cách chế độ tiền lương nhằm bảo đảm người công
chức có thể sống bằng đồng lương của mình. Công chức phải được bảo đảm sống
bằng đồng lương để tập trung vào công việc. Chế độ tiền lương cần hợp lí và phù
hợp với khả năng, cống hiến thực của công chức để có thể thu hút được những
người có khả năng nhất trong xã hội vào bộ máy công quyền. Đây là một trong
những vấn đề cốt lõi cần đặt thành mục tiêu ưu tiên phải thực hiện
ngay.
4. Phát triển kinh tế theo hướng bền vững trong đó
ưu tiên hàng đầu là tạo công ăn việc làm và nhanh chóng cải cách việc điều hành
và quản lý doanh nghiệp quốc doanh trong đó có các tập đoàn kinh
tế.
Về việc phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho
người lao động cần được đặt thành ưu tiên hàng đầu. Để phát triển bền vững
và hướng tới toàn dụng lao động cần đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng ngày
càng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và chú trọng phát triển nông
thôn.
Đề nghị lập một hội đồng tư vấn chiến lược phát
triển để giúp chính phủ vạch ra chiến lược phát triển có trọng điểm, không dàn
trải và dẫm chân lên nhau, kết hợp thỏa đáng lợi ích quốc gia và lợi ích vùng
nhằm phát triển nền kinh tế có chất lượng. Hội đồng này tập trung những
chuyên gia có trình độ, có chức năng xây dựng và giám sát việc thi hành chiến
lược phát triển với đủ thẩm quyền và chế độ đãi ngộ thích hợp. Bộ phận này phải
được đặt trên tất cả các bộ ngành liên quan tới lĩnh vực kinh tế, đứng đầu là
Thủ tướng hoặc Phó thủ tướng thường trực, có những chuyên viên tài năng, có cơ
chế tiếp thu ý kiến của giới doanh nhân và trí thức. Bộ phận chuyên trách này sẽ
có tiếng nói quan trọng trong việc quyết định các dự án lớn, trong quy hoạch
phát triển và xây dựng kết cấu hạ tầng.
Cải cách chế độ sở hữu ruộng đất và tạo cơ hội có
việc làm ngoài nông nghiệp là hai trụ cột để nâng cao mức sống của người dân ở
nông thôn. Cần có chiến lược về đất đai, qui hoạch rõ rệt các vùng chuyên
canh nông nghiệp và vùng có thể phát triển công nghiệp, cải cách để xác định rõ
đâu là đất tư hữu và đâu là đất công hữu, tiến tới xóa bỏ hẳn chính sách coi đất
đai là sở hữu toàn dân như hiện nay. Tư hữu hóa sẽ là cơ sở để giải quyết việc
tập trung ruộng đất manh mún hiện nay để thực hiện sản xuất lớn nông nghiệp và
phục vụ công nghiệp hóa nông thôn. Mặt khác, như nhiều người đã chỉ ra, đất đai
là một nguồn tham nhũng rất lớn, gây hàng ngàn vụ khiếu kiện của dân trong những
năm qua, tệ nạn này sẽ được hạn chế rất nhiều nếu người dân trên nguyên tắc được
toàn quyền sở hữu (thay vì chỉ có quyền sử dụng) đất đai của mình.
Cần xóa bỏ chế độ hộ khẩu để người dân khi đến đô
thị làm việc có thể yên tâm với cuộc sống ở đó và không cần giữ lại quyền sử
dụng đất ở nông thôn.
Cần nhanh chóng cải cách việc điều hành và quản lý
doanh nghiệp quốc doanh đặc biệt là các tập đoàn kinh tế. Thời gian qua tập
đoàn kinh tế đã trở thành nơi hội tụ của các nhóm lợi ích và người có quyền
chức, gây ra bất ổn cho nền kinh tế và tình trạng tham nhũng bành trướng. Vì
thế, cần đặt các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế, trong
khung pháp lý chung của luật pháp; xóa bỏ việc hành pháp trực tiếp lãnh đạo kinh
doanh và thay vào đó là Hội đồng quản trị độc lập có nhiệm kỳ, do Quốc hội hay
Hội đồng Nhân dân bổ nhiệm, nhằm tránh biến tập đoàn thành một phần của các nhóm
lợi ích. Ngoài ra, cần xóa bỏ các ưu đãi đặc biệt (về tín dụng, thuế, bảo lãnh
nợ,…) cho doanh nghiệp quốc doanh; và không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp
quốc doanh và ngoài quốc doanh.
5. Ngăn chặn sự xuống cấp của văn hóa và đạo đức xã
hội.
Văn hóa và đạo đức xã hội đang xuống cấp nghiêm trọng.
Kỷ cương phép nước và nhân phẩm của con người đang bị coi thường. Chưa bao giờ
cái xấu, cái giả và cái ác, biểu hiện ở nhiều dạng nhiều mặt, lại xuất hiện
nhiều như bây giờ. Các giá trị văn hóa tốt đẹp của nhân loại chưa kịp nuôi dưỡng
và bén rễ thì đã bị những cái xấu, cái giả lấn át. Thói háo danh, hình thức phô
trương, mê tín dị đoan lại càng được dịp lên ngôi. Vì thế, cần quảng bá, khuyến
khích những giá trị văn hóa tiến bộ của nhân loại như tự do, bình đẳng, bác ái,
pháp quyền… và khôi phục những tinh hoa văn hóa truyền thống để làm nền tảng cho
mọi sinh hoạt của xã hội. Cần nghiêm khắc xử lý cán bộ ở các cấp cao khi có hiện
tượng sai phạm đạo đức để làm gương. Đặc biệt quan trọng là việc sử dụng hiệu
quả vai trò tích cực của công luận để phê phán và ngăn chặn sự suy thoái của đạo
đức và văn hóa.
6. Thực sự làm cho giáo dục, y tế, khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu.
Nguồn lực lớn nhất của Việt Nam là con người. Vì thế,
chiến lược phát triển cần phải xây dựng theo hướng chủ yếu dựa vào nguồn nhân
lực ngày càng có kỹ năng và khả năng làm chủ công nghệ cao. Chiến lược phát
triển cũng cần phải vì cuộc sống của đại đa số dân chúng nhiều hơn nữa. Do đó,
phải có biện pháp hiệu quả nhằm cụ thể hóa các chính sách về giáo dục, khoa học
và công nghệ. Đồng thời, lãnh đạo phải cho thấy quyết tâm chăm lo sức khỏe của
người dân qua các cải cách về y tế.
Cần tránh chính trị hóa học đường. Thay vào đó, cần giáo dục đạo đức, khích lệ tinh thần yêu nước, trách nhiệm công dân, và ý chí phấn đấu của tuổi trẻ. Điều tối quan trọng là cần đảm bảo tự do học thuật, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo.
Do tầm quan trọng và tình hình ngày càng xuống cấp của
giáo dục, chúng tôi đề nghị Thủ tướng trực tiếp chịu trách nhiệm về giáo dục, cụ
thể là chỉ đạo nội dung cải cách, theo sát việc triển khai các chiến lược, chính
sách, và chịu trách nhiệm về kết quả của các cải cách lớn.
7. Thực hiện đoàn kết dân tộc
Chấp nhận và dung hòa với những người bất đồng chính
kiến nhưng cùng mục tiêu phát triển đất nước. Đặc biệt trước những diễn biến
phức tạp và nguy hiểm ở biển Đông, hòa hợp hòa giải dân tộc cũng có nghĩa là cổ
vũ lòng yêu nước của mọi người dân không phân biệt chính kiến, quá khứ. Chúng
tôi đặc biệt đề nghị nên có hình thức ghi nhận và biểu dương sự dũng cảm hy sinh
của những quân nhân Việt Nam Cộng hòa bảo vệ Hoàng Sa năm 1974.
8. Triển khai một đường lối ngoại giao độc lập, dựa
trên một thể chế dân chủ, chú trọng hơn đến quan hệ chiến lược với ASEAN và Hoa
Kỳ, trong khi tiếp tục coi trọng quan hệ hữu nghị và bình đẳng với Trung
Quốc.
Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc cần được xây dựng
trên cơ sở hoàn toàn bình đẳng, nhưng không xem đó là quan hệ đặc biệt, càng
không thể coi đó là đồng chí tốt. Việt Nam không thể “hợp tác toàn diện” với một
nước lớn và mạnh hơn mình hàng chục lần và có những quan hệ phức tạp về lịch sử
và địa chính trị, nhất là đang thể hiện rõ tham vọng và đã có những hành động
bành trướng, xâm hại chủ quyền và an ninh quốc gia của Việt Nam.
Về Biển Đông, Quốc hội Việt Nam cần ra một tuyên cáo
đặc biệt về Công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, khẳng định đó
không phải là sự thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ là thiện chí của Việt Nam ủng hộ Trung Quốc trong
việc tranh chấp với Mỹ về an ninh ở vùng biển gần Đài Loan. Tuyên cáo này vừa để
làm rõ quan điểm của Việt Nam trước dư luận quốc tế, vừa xóa bỏ những ngờ vực
của không ít người Việt Nam ở trong và ngoài nước, góp phần tăng thêm tình đoàn
kết dân tộc trước hiểm họa ngoại xâm.
Cần đoàn kết với Philippines, Malaysia và Brunei trong
việc chống lại tuyên bố “Đường Lưỡi Bò” của Trung Quốc. Chúng tôi đề nghị Việt
Nam đưa ra đề án với ASEAN đặt tên vùng biển Đông nước ta (mà Trung Quốc và
nhiều nước gọi là biển Nam Trung Hoa) là Biển Đông Nam Á.
Trước bước ngoặt lịch sử của đất nước hiện nay, Đảng
Cộng sản Việt Nam mang một trách nhiệm nặng nề đối với tiền đồ dân tộc. Chúng
tôi mong thấy một cuộc cách mạng mới về thể chế để Việt Nam có thể phát triển
thành một nước giàu mạnh và tự chủ.
A. Mở đầu Việt Nam chúng ta đang đứng ở đâu trên bản đồ kinh tế và trên cục diện chính trị của khu vực và thế giới? Đất nước chúng ta sẽ thụt lùi về nhiều mặt, hay là sẽ phát triển mạnh mẽ, bền vững, đáp ứng khát vọng của dân tộc là mong thấy một nước Việt Nam giàu mạnh, phát triển hài hòa với thiên nhiên và xã hội, chia sẻ được những giá trị phổ quát của thế giới văn minh và giữ vững độc lập về kinh tế, chính trị, văn hóa? Nền tảng xã hội, văn hóa, giáo dục và thể chế của ta hiện nay có tạo đủ những điều kiện cơ bản để đất nước phát triển theo hướng tích cực không?
Theo dõi những diễn tiến của xã hội Việt Nam, đặc biệt
trong những năm gần đây, chúng tôi thật sự lo âu khi thử trả lời những câu hỏi
nêu trên.
Từ gần 20 năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra mục
tiêu phát triển đất nước là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đây là mục tiêu đúng đắn, có giá trị phổ quát và nước nào cũng muốn nhắm tới.
Thế nhưng, hiện thực cho thấy Việt Nam không luôn tiến được theo hướng đó, nếu
không nói là trên nhiều mặt Việt Nam đã đi ngược lại. Một bộ phận nhỏ giàu một
cách bất hợp pháp, sinh hoạt xa hoa trong khi đa số dân chúng hằng ngày phải vật
lộn với cơm áo, với chi phí cho giáo dục, y tế trong cơn lạm phát. Tham nhũng
ngày càng trầm trọng, len lách vào mọi ngõ ngách của xã hội làm ảnh hưởng đến ý
chí phấn đấu, tinh thần hướng thượng của người dân, và ngày càng có nhiều trường
hợp công chức làm mất thể diện quốc gia. Bộ máy công quyền ở các cấp nổi lên quá
nhiều người thiếu cả tài lẫn đức đến nỗi một lãnh đạo cấp cao của Đảng phải thừa
nhận là bây giờ có quá nhiều “sâu”. Do tham nhũng, thiếu người tài đức gánh vác
việc nước nên bộ máy nhà nước có nhiều bất cập. Tiếng nói của trí thức, của các
nhà báo chân chính ngày càng mất hiệu quả. Đạo đức xã hội xuống cấp trầm trọng,
bắt đầu lan tràn vào cả trong học đường, trong viện nghiên cứu khoa học, là
những nơi lẽ ra phải đi đầu về đạo đức.
Năm 1996 Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra mục tiêu công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, chủ trương phấn đấu làm cho Việt Nam trở thành một
nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Từ đó đến nay đã 15 năm, đã đi gần 2/3
đoạn đường dự định mà cái đích còn quá xa vời. Việt Nam chưa có được một ngành
công nghiệp áp dụng công nghệ tiên tiến và cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường
thế giới. Chúng ta chủ yếu vẫn còn xuất khẩu hàng công nghiệp gia công, dùng
nhiều lao động giản đơn và tùy thuộc sản phẩm trung gian nhập khẩu. Doanh nghiệp
nhà nước nhất là tập đoàn kinh tế được dành mọi ưu đãi về vốn và đất nhưng cho
đến nay chẳng những không đóng được vai trò chủ đạo như nhà nước chủ trương mà
còn gây ra gánh nặng nợ nần và bất ổn cho toàn nền kinh tế.
Nền kinh tế yếu cùng với bộ máy nhà nước nhiều bất cập
đã đưa đến một hậu quả nghiêm trọng là Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào Trung
Quốc. Về kinh tế thì đã quá rõ: Hàng công nghiệp của Trung Quốc tràn ngập thị
trường Việt Nam, nhập siêu từ Trung Quốc cao ở mức dị thường, vừa gây bất ổn
kinh tế vĩ mô vừa cản trở khả năng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp của Việt Nam.
Doanh nghiệp Trung Quốc chiếm phần lớn các gói thầu xây dựng, mua quyền sử dụng
lâu dài rừng và bờ biển Việt Nam, đưa lao động vào Việt Nam dưới nhiều hình thức
– kể cả bất hợp pháp – và nhiều nơi hình thành cộng đồng người Hoa mới… Về chính
trị và tư tưởng, tuy không rõ ràng và dễ nhận biết như trong kinh tế, nhưng sự
phụ thuộc là có. Cũng vì gắn bó với Trung Quốc về ý thức hệ, về thể chế chính
trị mà ta không triển khai được đường lối ngoại giao khôn ngoan hiệu quả, không
tận dụng được sức mạnh thời đại để làm cho dân giàu nước mạnh. Chẳng những thế,
lệ thuộc về kinh tế và ngoại giao sẽ dễ dàng dẫn đến việc mất chủ quyền. Điều
này đưa đến một thực tế nghiêm trọng: An ninh quốc gia bị đe dọa!
Từ tháng 5 năm nay (2011), vấn đề biển Đông trở nên nổi
cộm. Ảnh hưởng của Trung Quốc đến an ninh của ta đã thấy rõ. Thật ra, chuyện
Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông lần này không đáng lo bằng sự thâm nhập của họ
ngày càng mạnh và sâu vào kinh tế, chính trị và văn hóa của ta. Khi kinh tế ta
yếu, bộ máy nhà nước yếu, nền tảng đạo đức xã hội lung lay, Trung Quốc có thể
thực hiện được mục tiêu biến Việt Nam thành một nước lệ thuộc toàn diện vào
họ.
Chúng tôi, những người có tên trong danh sách dưới đây,
vô cùng lo lắng, bức xúc trước nguy cơ Việt Nam bị thụt lùi trong tiến trình
phát triển của thế giới mà hậu quả là Việt Nam có thể mất độc lập và tự chủ dưới
hình thức này hay hình thức khác. Để tránh nguy cơ này, Đảng Cộng sản Việt Nam,
với trọng trách đối với tiền đồ của đất nước, cần cải cách và triệt để đổi mới
thể chế, nhằm củng cố và phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc, tận dụng thời
cơ quốc tế, để mở ra con đường phát triển mới cho đất nước. Những nhận
định về thực trạng và đề nghị cải cách dưới đây là xuất phát từ bức xúc về nguy
cơ hiện nay đối với Việt Nam và ước vọng của chúng tôi về một nước Việt Nam thực
sự giàu mạnh, văn minh và tự chủ. Chúng tôi tin rằng, đây cũng chính là ước vọng
của toàn dân Việt Nam nói chung.
B. Việt Nam nhìn từ thế giới bên ngoài Nhìn kinh tế thế giới trong nửa thế kỷ gần đây ta thấy nhiều nước, nhất là những nước ở châu Á, đã phát triển nhanh, rút ngắn khoảng cách với các nước đi trước, thậm chí có nước đã tiến lên ngang hàng với các nước tiên tiến. Có mấy khi chúng ta xét xem một cách khách quan, nghiêm túc những yếu tố cơ bản, những đặc trưng chung nhất làm cho các nước ấy thành công? Cho đến nay, Việt Nam có nghiên cứu kinh nghiệm các nước nhưng chủ yếu là những chính sách, chiến lược cụ thể, còn những yếu tố thuộc nền tảng thể chế và xã hội, nền tảng văn hóa, giáo dục…, tức là những tiền đề để cho các chính sách, chiến lược cụ thể ấy thành công, thì hầu như không được chú trọng nghiên cứu, hoặc có nghiên cứu nhưng không được thực thi, áp dụng.
Ta thử lấy trường hợp Hàn Quốc làm thí dụ: Hàn Quốc vào
đầu thập niên 1960 là nước kém phát triển nhưng sau đó vượt qua giai đoạn phát
triển ban đầu và thành công trong giai đoạn phát triển bền vững, trở thành nước
tiên tiến trong thời gian rất ngắn. Quá trình công nghiệp hóa của nước này bắt
đầu từ năm 1961 nhưng chỉ sau một thế hệ, Hàn Quốc đã trở thành một nước công
nghiệp phát triển đáng kể trên thế giới và đến năm 1996 được kết nạp vào Tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) là tổ chức của các nước tiên tiến. Từ một
nước nhận viện trợ nhiều vào các thập niên 1960 và 1970, Hàn Quốc bắt đầu chuyển
sang vị trí của nước đi viện trợ từ cuối thập niên 1980. Hiện nay, nhiều công ty
của Hàn Quốc trong các ngành công nghệ cao như điện tử, xe hơi đã vươn lên hàng
đầu thế giới.
Tổng hợp các kết quả nghiên cứu về sự thành công của
Hàn Quốc ta có thể nêu lên mấy nguyên nhân chính. Thứ nhất là tố chất của người
lãnh đạo. Đó là những nhà chính trị mà tinh thần yêu nước vượt qua những niềm
tin ý thức hệ, luôn trăn trở về con đường đưa đất nước đuổi kịp các nước tiên
tiến. Họ cũng là những người thức thời, biết học hỏi ở đâu, tham khảo thể chế,
cơ chế nào và du nhập công nghệ gì để phát triển nhanh. Và họ cũng biết rằng để
xây dựng chiến lược phát triển trên cơ sở hiểu rõ nội lực và ngoại lực không thể
không dựa vào người tài thật sự. Bởi vậy, chung quanh lãnh đạo toàn người tài
giỏi, nhất là nhiều người đã du học và làm việc ở các nước tiên tiến. Thứ hai,
với ý thức rằng bộ máy hành chính mạnh, hiệu suất cao mới vạch ra được các chính
sách cụ thể và thực thi có hiệu quả các chính sách ấy, Hàn Quốc từ rất sớm đã có
cơ chế thi tuyển công chức nghiêm ngặt để có được đội ngũ quan chức tài giỏi,
mang trong mình sứ mệnh lo việc nước. Thứ ba, trong quá trình phát triển, Hàn
Quốc xây dựng được quan hệ lành mạnh, hiệu quả giữa nhà nước và doanh nghiệp.
Nhà nước yểm trợ để doanh nghiệp vươn ra thị trường thế giới nhưng có cơ chế để
doanh nghiệp không ỷ lại vào nhà nước như buộc doanh nghiệp phải có thành quả
xuất khẩu mới tiếp tục được hỗ trợ. Thứ tư, giáo dục, nghiên cứu khoa học và
công nghệ được quan tâm hàng đầu. Vào giữa thập niên 1980, nghĩa là chỉ sau
khoảng 25 năm từ khi bắt đầu quá trình phát triển, Hàn Quốc đã có những đại học,
những viện nghiên cứu đạt chất lượng thuộc đẳng cấp quốc tế.
Những đặc trưng trên hầu như xuyên suốt trong quá trình
phát triển, kể cả giai đoạn đầu, dưới thể chế độc tài chính trị (1961-1987). Hàn
Quốc không phải không có tham nhũng, nhưng không tràn lan trong xã hội mà chỉ
giới hạn ở một vài chính trị gia và một số ít tập đoàn kinh tế. Đặc biệt hầu như
không có hiện tượng bòn rút của công, rút ruột công trình xây dựng, càng không
dám lạm dụng, lãng phí tiền viện trợ.
Trong 50 năm qua, những nền kinh tế khác tại châu Á
phát triển nhanh trong thời gian dài như Đài Loan, Malaysia, Thái Lan cũng đều
có những đặc trưng giống Hàn Quốc, tuy nội dung chi tiết có khác và thành quả ít
ấn tượng hơn.
Bây giờ nhìn lại trường hợp Việt Nam. Năm 2008, lần đầu
tiên thu nhập đầu người của Việt Nam vượt qua ngưỡng 1.000 USD, thoát ra được vị
trí của nước thu nhập thấp theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới. Nhưng ta đã
mất gần 35 năm kể từ khi đất nước thống nhất, nếu kể từ khi đổi mới cũng
gần một thế hệ mới đạt được thành quả khiêm tốn đó. Mặt khác, cơ chế, chính sách
trong thời gian qua, đặc biệt trong 4-5 năm gần đây, đã làm cho kinh tế phát
triển chủ yếu dựa vào vốn, hiệu quả đầu tư giảm và kéo theo lạm phát, lãng phí.
Chất lượng phát triển cũng giảm nghiêm trọng: môi trường xuống cấp, phân hóa
giàu nghèo tăng nhanh. Từ thành quả khiêm tốn và chất lượng phát triển thấp này,
liệu từ nay Việt Nam có thể bắt đầu giai đoạn phát triển bền vững và kéo dài
trong nhiều thập niên để thực sự có dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ
văn minh, có vị trí xứng đáng trong khu vực châu Á và trên thế
giới?
Cũng theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới, tính theo
giá năm 2009, thu nhập đầu người 4.000 USD là cái mốc của nước thu nhập trung
bình cao và 12.000 USD là mốc vượt lên hàng các nước thu nhập cao. Ở châu Á, Hàn
Quốc từ một nước nghèo đã vươn lên hàng các nước thu nhập cao chỉ trong 4 thập
niên (thu nhập đầu người năm 2009 là 17.000 USD). Malaysia (7.000 USD) và Thái
Lan (4.000 USD) đang nỗ lực tạo điều kiện để trở thành nước tiên tiến, có thu
nhập cao trong vòng hai thập niên tới.
Chỉ kể từ thời kỳ sau đổi mới, Việt Nam đã nhận viện
trợ gần 20 năm rồi mà chưa thấy lãnh đạo Việt Nam đưa ra kế hoạch tới bao giờ sẽ
không còn nhận viện trợ. Ngược lại, ở Hội nghị các nhà tài trợ mới đây, chính
phủ còn nhấn mạnh Việt Nam vẫn là nước nghèo, cần thế giới tiếp tục quan tâm,
giúp đỡ! Sang Seoul gặp sinh viên ta đang du học ở đấy sẽ nghe họ buồn rầu nói
về hình ảnh Việt Nam tại Hàn Quốc. Trong khoảng 95.000 người Việt Nam tại đây
thì 60.000 là lao động xuất khẩu và 30.000 là phụ nữ sang lấy chồng vì lý do
kinh tế. Vậy thì hình ảnh Việt Nam ở đây làm sao tốt được? Trí thức nước ngoài
hiện nay khi nói về Việt Nam ít có ai lạc quan về tương lai kinh tế nước ta. Đó
là họ mới chỉ thấy tình trạng tham nhũng, trình độ của quan chức mà họ tiếp xúc
và những chính sách bất cập mà họ thấy được.
Phân tích trong phần tiếp theo cho thấy thực trạng đáng
lo ngại về kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học & công nghệ và đối
ngoại, cũng như những nguyên nhân chính đã đưa đến trình trạng đó.
C. Việt Nam hiện nay: Thực trạng và nguyên nhân Phân tích hiện trạng Việt Nam, chúng tôi thấy có quá nhiều vấn đề đang làm cho nền tảng xã hội bị lung lay, đất nước suy yếu. Hầu hết những vấn đề đó bắt nguồn từ thể chế và cơ chế.
1. Về kinh tế
Hiện nay trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam tuy hàng
công nghiệp chiếm khoảng 60% nhưng chủ yếu vẫn là những ngành dùng nhiều lao
động giản đơn. Thêm vào đó, sản xuất các mặt hàng này phải phụ thuộc vào nguyên
liệu và sản phẩm trung gian nhập khẩu. Các loại máy móc, những sản phẩm có hàm
lượng kỹ năng lao động cao chỉ chiếm khoảng 10% tổng xuất khẩu. Xuất khẩu của
Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào nông sản, nguyên liệu. Từ năm 2002 nhập siêu
của Việt Nam tăng nhanh và gần đây khuynh hướng này càng mạnh hơn. Nhập siêu quá
lớn đang gây ra bất ổn vĩ mô.
Trong 5 năm qua, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã đi
theo hướng hầu như mở toang cửa nền kinh tế mà không kèm theo việc thiết lập một
hệ thống pháp lý cần thiết nhằm giám sát các mặt trái của nền kinh tế thị
trường. Kết quả là Việt Nam đã vô tình xây dựng và củng cố một nền kinh tế tư
bản hoang dã phục vụ các nhóm lợi ích (nhất là các tập đoàn kinh tế), phá hoại
tài nguyên thiên nhiên, bòn rút của công làm giàu cho cá nhân trong khi lao động
chân chính phải khổ sở với đồng lương thấp trước sự leo thang của vật
giá.
Từ năm 2006 Việt Nam cho phép lập các tập đoàn kinh tế
nhưng không đi kèm quy định giám sát cần thiết cũng như điều kiện buộc phải xác
lập hệ thống quản lý doanh nghiệp, minh định rõ trách nhiệm và quyền hạn của
lãnh đạo công ty. Điều này đã đưa đến hậu quả nghiêm trọng, trở thành một trong
những nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng hiện nay. Sự đổ vỡ của Vinashin cho
thấy bản chất của các tập đoàn kinh tế.
Chính sách phân quyền xuống địa phương đã không phát
huy được sức sáng tạo và cạnh tranh để phát triển mà ngược lại, mở cửa cho những
người có chức có quyền ở địa phương lợi dụng cơ hội đào khoét tài nguyên đất
nước để làm giàu cá nhân, kể cả việc giao đất và tài nguyên cho nước ngoài khai
thác ở những nơi trọng yếu về an ninh và quốc phòng. Luật Đất đai coi đất đai là
sở hữu công, do đó dành cho chính quyền quyền thu hồi đất của bất cứ ai. Luật
lại giao quyền này cho Ủy ban Nhân dân ở mọi cấp, xuống tận cấp quận, huyện, với
giá do chính Ủy ban Nhân dân quyết định nhằm mục đích “phát triển kinh tế”. Đây
chính là lý do nhiều đất đai mầu mỡ của nhân dân bị thu hồi để làm khu phát
triển công nghiệp, sân gôn, hay xây nhà kinh doanh. Do được phân quyền, nhiều
địa phương giao đất rừng, hầm mỏ cho công ty Trung Quốc khai thác trong 50 năm,
kể cả những vùng nhạy cảm về an ninh mà trung ương không biết. Ngoài ra, tình
trạng thu hồi đất có tính cách cưỡng chế đã giải thích tại sao có quá nhiều vụ
dân oan liên quan đến đất đai.
Chính sách phân quyền hoàn toàn hợp lý để tạo sự chủ
động, sáng tạo cũng như nhằm giải quyết các vấn đề riêng của địa phương, kể cả
tạo cạnh tranh giữa địa phương này và địa phương khác. Nhưng thực tế các yếu tố
tích cực đó đã không phát huy tác dụng, ngược lại chỉ làm nảy sinh các mặt tiêu
cực. Tại sao như vậy? Đó là do năng lực yếu kém và thiếu tinh thần trách nhiệm
của nhiều lãnh đạo địa phương như sẽ nói dưới đây.
Quy hoạch phát triển cũng là vấn đề đáng lo ngại của
ta. Nhìn chung, cho đến nay quy hoạch nặng tính chất áp đặt, nóng vội, duy ý
chí, thiếu thiết kế tổng thể và nhiều khi thiếu tính chuyên nghiệp. Những yếu
kém này thể hiện ở nhiều lĩnh vực. Trong phát triển đô thị thì đó là việc quy
hoạch vội vã, thiếu khoa học dẫn đến tình trạng ùn tắc giao thông liên tục và
kéo dài, ngập úng do mưa, đào đường, đắp đường, chắn lô cốt … ở khắp mọi nơi.
Trong đầu tư thì đó là tình trạng đầu tư theo phong trào, tràn lan kém hiệu quả
như việc đầu tư trong nhiều dự án về kết cấu hạ tầng, về nhiều dự án phát triển
công nghiệp và dịch vụ kém hiệu quả. Việc quy hoạch phát triển yếu kém dẫn đến
tình trạng khai thác tài nguyên cạn kiệt, ồ ạt, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà
không tính đến hiệu quả lâu dài; không xét đầy đủ đến tất cả các khía cạnh liên
quan đến hiệu quả kinh tế, văn hóa, môi trường, v.v. Nhiều cảnh quan thiên nhiên
và di tích văn hóa bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đặc biệt môi trường bị ô nhiễm
nặng nề. Điển hình của việc này là nhiều dòng sông đã và đang bị các công ty đua
nhau “bức tử”. Nguồn nước sinh hoạt, nước trong các ao hồ từ các thành phố lớn
đến nông thôn cũng bị ô nhiễm ở rất nhiều nơi. Chính do ô nhiễm nguồn nước sinh
hoạt, ở nhiều vùng đã xuất hiện những “làng ung thư”. Điều này gióng lên hồi
chuông cảnh báo cấp bách và đòi hỏi chính quyền phải có những biện pháp mạnh mẽ
hơn nữa trong việc bảo vệ môi trường và chất lượng nguồn nước. Ngoài ra, ô nhiễm
không khí cũng ở trạng thái báo động và ô nhiễm ở các làng nghề cũng ở mức nguy
hiểm.
Nguyên nhân của tình trạng này là do thiếu nhận thức
đúng đắn về tầm quan trọng của quy hoạch, do khả năng hạn chế của chính quyền
địa phương, và không loại trừ những toan tính tư lợi hoặc lợi ích cục bộ của
những người có trách nhiệm.
Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình hình kinh tế như hiện
nay? Chúng tôi cho là có ba nguyên nhân sâu xa.
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam kiên trì phương châm
xây dựng “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” trong đó chủ
trương vai trò chủ đạo của sở hữu nhà nước, của kinh tế nhà nước. Từ khi có
phương châm này (1991), do sự thuyết phục của những người có tư tưởng cải cách,
nội dung có thay đổi một phần nhưng cái cốt lõi vẫn giữ nguyên mà hiện thân của
nó là các tập đoàn kinh tế do nhà nước lập ra. Nhiều tập đoàn kết nối với một số
lãnh đạo làm thành những nhóm lợi ích chi phối chính sách kinh tế. Khi có sai
phạm các lãnh đạo đó bám theo phương châm nói trên của Đảng để trốn trách
nhiệm.
Thứ hai, trong cơ quan nhà nước, trách nhiệm cá nhân
không rõ ràng và thiếu động cơ để quan chức, lãnh đạo các bộ phấn đấu để bộ mình
giải quyết các vấn đề lớn của đất nước. Ngược lại, ta thấy nhiều trường hợp họ
chạy theo những hoạt động ngoài công việc mình phụ trách, lãng phí thì giờ và
công quỹ. Có bộ trưởng phụ trách kinh tế trong lúc kinh tế khủng hoảng lại dành
thời gian hướng dẫn nghiên cứu sinh viết luận án tiến sĩ, vốn là việc của giáo
sư đại học. Có cục trưởng phụ trách vấn đề giá cả trong lúc lạm phát người dân
khốn đốn lại bỏ đi đóng phim! Suốt trong hơn 10 năm qua, ai cũng thấy rõ công
nghiệp Việt Nam thiếu sức cạnh tranh, hàng hóa của Trung Quốc ào ạt tràn vào
nước ta, doanh nghiệp nhỏ và vừa không phát triển được, v.v. Cũng đã có rất
nhiều đề án, chiến lược được trí thức trong và ngoài nước đưa ra, kể cả phân
tích của học giả nước ngoài và các cơ quan quốc tế, nhưng tất cả đều bị xếp lại,
không được chuyển thành chính sách để thực hiện.
Thứ ba, một phần liên quan đến vấn đề thứ hai vừa đề
cập, trình độ, năng lực, tư cách của rất nhiều quan chức các cấp ở trung ương và
địa phương không đạt yêu cầu. Rất tiếc chúng ta chưa chứng kiến những hình tượng
lý tưởng của nhà cầm quyền “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của
thiên hạ”, còn người ngược lại thì quá nhiều. Trong cơn bão giá làm dân chúng
điêu đứng mà trách nhiệm chính ở những bộ liên quan, nhưng tiền mua xe hơi của
quan chức cao cấp được tăng lên và được giải thích đó là chính sách đối phó với
giá cả leo thang! Thí dụ tương tự về sự vô cảm, vô trách nhiệm của quan chức thì
quá nhiều. Hậu quả tiêu cực của chính sách phân quyền đã nói phần lớn là do
trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn và tư chất đạo đức của các chức trách địa
phương. Chúng ta nghe nhiều về các hiện tượng tiêu cực ở địa phương hơn là những
điển hình tiên tiến, ít thấy những lãnh đạo dấn thân vì dân giàu nước mạnh ở địa
phương mình. Hiện tượng đưa người thân quen vào bộ máy công quyền rồi trang bị
thêm bằng cấp đạt được bằng con đường bất minh cũng làm suy yếu bộ máy hành
chính ở rất nhiều nơi
2. Về văn hóa
Văn hóa, đạo đức xã hội đang suy thoái trầm trọng. Chưa
khi nào tin tức về tệ nạn xã hội lại có mật độ dày đặc như hiện nay. Dường như,
cái xấu và cái ác đang hoành hành ngoài xã hội và tràn lên mặt báo mỗi ngày. Kỷ
cương, phép nước bị coi thường, tính tự giác tôn trọng pháp luật và các quy ước
xã hội và văn hóa rất thấp. Mê tín dị đoan lên ngôi, không chỉ ở tầng lớp đại
chúng mà ngay ở cả một số cán bộ cao cấp ở các cơ quan công quyền. Hiện tượng
“buôn thần bán thánh” trở thành phổ biến. Những chuẩn mực về văn hóa, những giá
trị phổ quát như chân-thiện-mỹ đã bị sự giả dối, cái xấu và cái ác bóp nghẹt
không nhân nhượng.
Hệ quả của điều này là các thang giá trị trong xã hội
bị đảo lộn. Sự tự trọng, danh dự đã bị sự giảo hoạt, gian dối lấn át. Người ta
sẵn sàng làm đồ giả để dâng cúng Quốc tổ, Quốc mẫu; sẵn sàng tranh cướp trong
các lễ hội hoa; sẵn sàng túc trực chen lấn xô đẩy đến hỗn loạn trong lễ hội phát
ấn.
Chưa bao giờ, nhân phẩm của con người có thể bị xúc
phạm dễ dàng và tính mạng của con người có thể bị coi rẻ như vậy. Những vụ đánh
giết nhau với hung khí xảy ra thường xuyên, nhiều khi chỉ vì những nguyên nhân
không đâu. Không chỉ giữa những người dân bình thường với nhau, mà còn cả giữa
đại diện của cơ quan công quyền với dân chúng. Vốn văn hóa dân tộc trở nên mỏng
manh hơn bao giờ hết trước sự tấn công của văn hóa ngoại, đặc biệt là văn hóa
Trung Quốc dưới mọi hình thức, thể loại.
Một điều hết sức đáng băn khoăn là thế hệ thanh thiếu
niên đang lớn lên trong một môi trường thiếu hình mẫu cá nhân về lý tưởng và đạo
đức, do vậy dễ quen một cách tự nhiên với các thói xấu như quay cóp, gian lận
thi cử, đạo văn, hối lộ… Tính vị kỷ được đề cao, đi liền cùng sự thờ ơ với các
vấn đề của xã hội, của đất nước.
Nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng suy thoái đạo đức,
văn hóa này là sự thiếu trách nhiệm của các cơ quan chức năng; sự băng hoại, tha
hóa của nhiều công chức qua việc tham nhũng và hối lộ; và sự kiểm soát báo chí
và truyền thông, – vũ khí mạnh nhất để chống lại tham nhũng, bất công, giả dối,
ác độc – đã làm cho công luận bị hạn chế và vô hiệu hóa.
3. Về giáo dục
Giáo dục là vấn đề được toàn xã hội Việt Nam quan tâm
nhất từ nhiều năm nay. Từ cuối thập niên 1990 nhà nước đã đưa giáo dục lên quốc
sách hàng đầu, nhưng thực tế thì tình hình giáo dục ngày càng tụt hậu, sa sút,
nhất là trong những năm gần đây. Một vài điểm nổi bật dễ thấy của giáo dục Việt
Nam trong những năm qua như sau.
Một là chất lượng đào tạo sút kém, từ bậc phổ thông đến
đại học và càng lên cao chất lượng càng yếu. Nhìn tổng thể, giáo dục Việt Nam
chưa đào tạo đủ những người có kiến thức và năng lực để đáp ứng nhu cầu của phát
triển đất nước. Nhân lực đào tạo ra ở cuối bậc đại học, cao đẳng và dạy nghề còn
ở khoảng cách xa với đòi hỏi thực tế của các ngành nghề và xã hội.
Hai là hệ thống giáo dục phổ thông gây ra nhiều hiện
tượng làm bức xúc trong xã hội như tổ chức quá nhiều kỳ thi, lãng phí sức người,
sức của; dạy thêm, học thêm tràn lan; chương trình giáo dục và sách giáo khoa
luôn thay đổi nhưng chất lượng không được cải thiện. Ngoài ra, bệnh thành tích
và các tệ nạn tham nhũng trong giáo dục hết sức phổ biến.
Ba là giáo dục đại học có chất lượng nói chung còn
thấp, gần đây lại phát triển hỗn loạn với nhiều trường tư chạy theo lợi nhuận
lại được cấp phép bừa bãi, không đáp ứng một quy hoạch có cân nhắc nào. Tình
trạng nói trên dẫn đến hiện tượng “tị nạn giáo dục”, khi những người giàu có ở
Việt Nam, kể cả các quan chức trong Đảng và chính phủ, đều tìm cách cho con em
ra nước ngoài học, thậm chí từ cấp phổ thông.
Bốn là bằng cấp trở thành mục đích, là cứu cánh của cả
xã hội, và các tệ nạn học vẹt, học tủ, bằng giả, gian lận trong thi cử, … không
hề được bài trừ một cách kiên quyết. Nhiều quan chức bị tố cáo trên báo chí về
việc dùng bằng giả hay gian lận thi cử rồi cũng được bỏ qua, thậm chí được bổ
nhiệm chức vị cao hơn. Hiện tượng mua bằng, sao chép luận án, thuê viết luận án,
v.v. đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến đạo đức học đường nói riêng và toàn xã hội
nói chung.
Năm là chế độ phong chức danh phó giáo sư và giáo sư ở
đại học còn nhiều bất cập. Các tiêu chuẩn phong chức danh hiện nay không khuyến
khích nhà giáo đại học hướng đến những nghiên cứu khoa học đích thực, có ý nghĩa
mà thường làm những việc để dễ có “điểm” theo quy định không đâu có của việc
phong chức danh. Ngoài ra, các chức danh này lẽ ra chỉ dành cho người giảng dạy
đại học hoặc nghiên cứu khoa học, nay được phong ở nhiều ngành cho nhiều người
vốn không có vị trí giảng dạy đại học hay nghiên cứu ở cơ quan khoa học, làm cho
nhiều quan chức hành chính nhảy vào tham gia công việc của đại học một cách
không thích đáng.
Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng sa sút của
giáo dục đã được bàn luận rộng rãi, chúng tôi cho rằng các nguyên nhân sau đây
là chính yếu.
Một là giáo dục của Việt Nam trong những năm qua thiếu
một tầm nhìn chiến lược tổng thể; thiếu kiên quyết theo đuổi một triết lý giáo
dục xác định; thiếu kế hoạch đồng bộ từ cơ cấu tổ chức đến triển khai các hoạt
động giáo dục; ở rất nhiều nơi, sự cứng nhắc và áp đặt của hệ thống chính trị đã
ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động giáo dục. Thêm nữa là nội dung giáo dục
nặng nề, phương pháp dạy và học lạc hậu, chậm đổi mới; và trên hết là thiếu
những người lãnh đạo ngành giỏi cùng một đội ngũ quản lý giáo dục hiệu quả.
Những cố gắng thay đổi của ngành giáo dục trong những năm qua thường mang tính
vụn vặt, chắp vá, nhiều khi do quyết định vội vã của một vài cá nhân và càng làm
tình hình thêm rối.
Hai là lương của giáo viên quá thấp làm họ không thể vô
tư toàn tâm toàn ý với công việc. Do giáo viên phải tự bươn chải trong một xã
hội cha mẹ sẵn sàng làm mọi việc cho sự học của con cái, nhiều tiêu cực đã nảy
sinh, ảnh hưởng đến tư cách và hình ảnh người thầy, vốn là điều kiện tiên quyết
cho thành bại của giáo dục.
4. Về y tế
Tình trạng bệnh tật và y tế của nước ta thật hết sức
đáng lo.
Số người chết vì tai nạn giao thông làm nhức nhối xã
hội, nhưng nguyên nhân tử vong trong các bệnh viêm phổi, viêm họng, viêm phế
quản và viêm tiểu phế quản cấp, tiêu chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc
nhiễm khuẩn, cúm, sốt rét còn cao hơn nhiều. Mẫu số chung của các bệnh này là
tình trạng thiếu dinh dưỡng vì nghèo khó, là môi trường bị ô nhiễm trầm trọng,
là sự bất cập trong chính sách về y tế và thiếu đạo đức nghề nghiệp của người
thầy thuốc.
Dịch vụ y tế ở Việt Nam có phát triển trong những năm
vừa qua (số lượng cán bộ nhà nước làm về y tế tăng xấp xỉ 40% trong giai đoạn
1995-2009, và có thêm nhiều cơ sở y tế tư nhân xuất hiện), nhưng tình trạng quá
tải ở các bệnh viện công, với hiện tượng 2-3 người phải nằm chung một giường
bệnh ở nhiều nơi, không giảm đi mà thậm chí có phần tăng lên. Lý do là, tuy dịch
vụ y tế tăng lên, nhưng bệnh tật ở Việt Nam còn tăng nhanh hơn. Ví dụ, nếu năm
2000 cứ 100 nghìn người có 242 ca ung thư, thì đến năm 2010 con số này đã tăng
lên thành 315 ca, so với trung bình trên thế giới là dưới 200 ca. Nếu như trong
giai đoạn 2002-2006 cứ 100 người thì có 9 lượt nhập viện trong năm, thì đến năm
2009 con số đó đã tăng hơn 30% thành 12 lượt nhập viện, thuộc loại cao nhất trên
thế giới. Tỷ lệ bệnh tật tăng nhanh là cái giá mà Việt Nam đang phải trả cho
kiểu phát triển kinh tế thiếu bền vững, thói làm ăn giả dối dẫn đến môi trường
bị ô nhiễm và thực phẩm độc hại.
Tương tự như đối với ngành giáo dục, nhà nước ở trung
ương và địa phương chưa chú tâm đầu tư đúng mức đến ngành y tế, trong khi tiếp
tục lãng phí trong việc xây dựng nhiều công trình không hoặc chưa cần thiết. Tỷ
lệ chi phí mà nhân dân phải tự bỏ ra cho dịch vụ y tế tăng lên nhanh. Nhiều
người nghèo có bệnh không được nhập viện, hay phải trốn viện vì không có tiền
đóng viện phí. Lương chính thức trả cho các y bác sĩ không đủ sống và không xứng
đáng với địa vị của họ. Những điều này góp phần làm cho các tệ nạn tiêu cực, sự
suy đồi về đạo đức lan tràn vào trong ngành y tế. Người thầy giáo và người thầy
thuốc vốn là những người được xã hội ta tôn trọng từ xưa, nhưng sự suy thoái về
đạo đức đã làm phai nhạt đi truyền thống tốt đẹp này.
5. Về khoa học và công nghệ
Có thể nói những đặc điểm chính của khoa học và công
nghệ (KH&CN) Việt Nam trong mấy chục năm qua là sự đóng góp còn rất hạn chế
của KH&CN vào công cuộc phát triển đất nước; lực lượng làm KH&CN được
đào tạo nhiều nhưng không làm việc hiệu quả; các chính sách và cách thức tổ chức
hoạt động KH&CN còn nhiều bất cập.
Có thể tóm tắt những điểm nổi bật của bức tranh tổng
quát về tình trạng khoa học và công nghệ của Việt Nam hiện nay, như
sau:
Thứ nhất, có thể nói hoạt động nghiên cứu và ứng dụng
KH&CN ở Việt Nam còn mờ nhạt: hoạt động nghiên cứu KH&CN có chất lượng
thấp và KH&CN chưa có những đóng góp xứng đáng cho sự phát triển đất
nước.
Chất lượng thấp này có thể thấy rõ qua các thước đo
khách quan như số lượng các công trình công bố trên các tập san khoa học quốc tế
uy tín và số bằng phát minh sáng chế. Trong 10 năm qua, số lượng công bố của các
nhà khoa học Việt Nam chỉ bằng 1/3 của Thái Lan và 2/5 của Malaysia. Hơn nữa, ở
nhiều lĩnh vực, phần lớn những nghiên cứu này là do hợp tác với nước ngoài, tức
còn phụ thuộc vào “ngoại lực” quá nhiều. Trong giai đoạn 2000-2007, các nhà khoa
học Việt Nam chỉ đăng kí được 19 bằng phát minh, trong khi cùng thời gian này
Malaysia có 901 bằng phát minh. Thái Lan (310), Philippines (256) và Indonesia
(85) cũng đều có số bằng phát minh nhiều hơn Việt Nam nhiều lần.
Ứng dụng và sáng tạo KH&CN trong sự phát triển của
Việt Nam còn mờ nhạt, chưa tương xứng với lực lượng đông đảo cán bộ KH&CN
được đào tạo và chưa đáp ứng được đòi hỏi của xã hội. Kinh phí đầu tư, chính
sách và cách quản lý chưa cho thấy KH&CN khó có thể trở thành yếu tố quyết
định để Việt Nam thoát ra khỏi nhóm quốc gia chủ yếu chỉ sản xuất sản phẩm đơn
giản hay gia công hàng hóa. Hiện tại, phần lớn doanh nghiệp làm ăn chưa dựa trên
KH&CN và hầu hết không có liên kết chặt chẽ với các cơ sở
KH&CN.
Thứ hai là số người được đào tạo để hoạt động KH&CN
tuy rất đông với nhiều bằng cấp, nhưng phần lớn không thật sự hoạt động
KH&CN, mà lay lắt hoặc “chân trong chân ngoài” với danh nghĩa làm
KH&CN.
Có thể nêu ra một số nguyên nhân chính của tình trạng
trên:
Một là, Việt Nam thiếu một chiến lược KH&CN thích
hợp nên chưa xác định được lộ trình của KH&CN, và tập trung vào những hướng
quan trọng rất cần cho phát triển đất nước và có thể tạo ra thành quả ý nghĩa.
Hạn chế này có phần do việc thiếu các chuyên gia đầu đàn ở mức độ am hiểu sâu
sắc lĩnh vực chuyên môn, có kinh nghiệm và uy tín quốc tế, có thể lãnh đạo được
những tập thể khoa học. Một nguyên nhân của tình trạng trên là: Tuy số lượng cán
bộ KH&CN của ta được đào tạo nhiều, nhưng hầu hết chỉ ở mức vừa xong giai
đoạn học việc (như có bằng tiến sĩ mới là xong giai đoạn học để thành người làm
nghiên cứu), thường không được rèn luyện thêm trong môi trường KH&CN phát
triển để thành nhà khoa học trưởng thành.
Hai là, các nhà khoa học Việt Nam chưa có được môi
trường KH&CN thích hợp để có thể làm việc và sáng tạo. Môi trường này gồm ba
yếu tố cơ bản: điều kiện làm việc đủ tốt, lương đủ sống để tập trung cho công
việc, các chính sách hợp lý có tác dụng kích thích tinh thần sáng tạo, dấn thân
vì khoa học. Điều kiện làm việc ở phần lớn các đại học và các viện nghiên cứu
của Việt Nam nói chung còn thiếu thốn, chưa đủ để tiến hành nhiều đề tài quan
trọng và tiên tiến trong khoa học. Một số nơi có trang thiết bị tốt, lại không
giải quyết được vấn đề tiền lương. Tiền lương của người làm khoa học thấp vừa
ảnh hưởng đến nội dung, chất lượng nghiên cứu vừa gây ra nhiều hiện tượng tiêu
cực, người có năng lực nghiên cứu cũng không chuyên tâm với nghề mà phải xoay xở
tìm thêm thu nhập ngoài lương.
Nhiều chính sách và cách quản lý đề tài KH&CN chưa
hợp lý cũng góp phần làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của nghiên cứu. Thí dụ
tiêu biểu như cách tổ chức đề tài khoa học còn nặng tính xin-cho, làm nhiều
người làm nghiên cứu mất nhiều thì giờ chạy dự án; việc tuyển chọn và nghiệm thu
đề tài thiếu nghiêm túc nên rất nhiều đề tài không có ý nghĩa và giá trị khoa
học. Những quy định, tiêu chuẩn hiện nay về việc phong các chức danh giáo sư,
phó giáo sư không khuyến khích các nhà khoa học hướng đến những nghiên cứu quan
trọng và thách thức, có giá trị khoa học cao hoặc cần cho sự phát triển, mà dễ
hướng đến những nghiên cứu dễ làm, những nơi dễ công bố để có đủ “điểm” thỏa mãn
các tiêu chuẩn phong chức danh, vốn không có ở bất kỳ nước nào khác. Đây thật sự
là những điều rất không hợp lý đã được nhiều nhà khoa học góp ý gần hai chục
năm, nhưng không được thay đổi.
Người làm nghiên cứu trong ngành khoa học xã hội còn
luôn nỗi ám ảnh sợ “chệch hướng”, mất lập trường, nên nói chung sáng tạo bị hạn
chế, khoảng cách so với cộng đồng khoa học thế giới càng lớn. Ngoài ra, ngược
với yêu cầu rất cao về sự bình đẳng, sự tự do tư duy của môi trường khoa học,
việc mất dân chủ ở các cơ quan khoa học thường rất lớn, nhiều trường hợp nội bộ
mâu thuẫn, giành giật địa vị, hoàn toàn không xứng đáng với phẩm vị của người
làm khoa học.
6. Về quan hệ đối ngoại
Sau khi gia nhập ASEAN và bình thường hóa quan hệ với
Mỹ, Việt Nam mở rộng quan hệ ngoại giao, kinh tế và giao lưu văn hóa với hầu hết
các nước. Sau năm 2000, quan hệ đó được đẩy mạnh thêm một bước bằng Hiệp định
thương mại Việt Mỹ và gia nhập WTO. Cùng với trào lưu toàn cầu hóa, kinh tế Việt
Nam hội nhập mạnh mẽ vào dòng chảy của thế giới, các quan hệ đối ngoại khác cũng
nhộn nhịp hơn trước.
Có thể ghi nhận nhiều mặt tích cực của hiện tượng đó.
Chẳng hạn xuất khẩu sang thị trường lớn nhất thế giới (Mỹ) được đẩy mạnh, cơ hội
du học của sinh viên Việt Nam tăng nhanh, giành được vị trí trong các tổ chức
khu vực và quốc tế như ASEAN, APEC, WTO. Nhưng nhìn kỹ ta thấy những mặt tiêu
cực lớn hơn nhiều, rất đáng lo ngại.
Theo chúng tôi, so với thời mới đổi mới, mở cửa
(đầu thập niên 1990), hình ảnh Việt Nam trên thế giới xấu đi nhiều. Tham nhũng
lan ra cả trong các quan hệ quốc tế. Chỉ kể những sự kiện lớn (như dự án ODA của
Nhật, vụ in tiền polymer ở Úc,…) cũng thấy thể diện đất nước bị tổn thương
nhiều. Các vụ nhỏ hơn thì nhiều vô kể, chỉ cần gặp những doanh nhân nước ngoài
có kinh nghiệm làm việc ở Việt Nam là biết rõ. Điều đáng nói là nhà nước Việt
Nam đã không có thái độ thích đáng, không xử lý nghiêm những sự kiện bị nước
ngoài chỉ trích. Điển hình là vụ in tiền polymer, báo chí nước ngoài nhiều lần
nêu tên thật của cựu thống đốc ngân hàng nhà nước mà cả đương sự và chính phủ
đều giữ im lặng. Là người Việt Nam có ý thức dân tộc ai cũng thấy hổ thẹn về sự
kiện này.
Nhìn sang lĩnh vực đầu tư nước ngoài, ta thấy nổi bật
lên sự hiện diện rất lớn của Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore và gần đây
là Trung Quốc. So với các nước tiên tiến như Mỹ, Nhật, Pháp,.. thì những nước
mới nổi, mới phát triển chưa có nhiều những công ty đa quốc gia tầm cỡ; chưa có
công nghệ cao; chưa coi trọng sự minh bạch, hoạt động đúng theo luật và nhất là
giữ thanh danh đã được xác lập của mình. Không ít trường hợp các công ty của
những nước mới nổi tạo những quan hệ bất chính với quan chức nhà nước Việt Nam,
nhất là với chính quyền địa phương, để được cấp các dự án béo bở. Chúng tôi rất
lo ngại khi thấy nhà nước Việt Nam quá dễ dãi để cho tư bản nước ngoài đầu tư ồ
ạt vào việc xây dựng các khu nhà ở quy mô lớn, các khu du lịch, sân gôn, v.v. và
hình thành những cộng đồng người Hàn, người Hoa trên đất nước mình. Trong khi
giới doanh nhân trong nước còn non yếu, chưa có khả năng làm chủ đất nước và
cuộc sống của tuyệt đại đa số người dân còn nhiều khó khăn, liệu có nên để cho
nước ngoài xây dựng những vùng đặc biệt như vậy? Trong nhiều năm qua, đầu tư
nước ngoài triển khai ồ ạt ở Việt Nam mà cơ cấu công nghiệp không chuyển dịch
lên cao hơn, không tạo ra được những mặt hàng xuất khẩu có hàm lượng công nghệ
cao.
Trong chiều hướng chung ấy, quan hệ với Trung Quốc là
đáng lo nhất. Đầu tư của Trung Quốc chưa nhiều bằng những nước nói trên nhưng sự
hiện diện của Trung Quốc trong những hình thái khác đang làm Việt Nam mất dần
chủ quyền trong nhiều lĩnh vực. Nếu tình hình hiện tại không thay đổi thì đầu tư
trực tiếp từ Trung Quốc sẽ tăng nhanh, không bao lâu sẽ chiếm vị trí số một tại
Việt Nam.
Hiện nay, quan hệ ngoại thương Việt Trung gây ra bất ổn
kinh tế vĩ mô của Việt Nam, tiềm ẩn nguy cơ về an ninh kinh tế và gây khó khăn
trên con đường công nghiệp hóa của ta. Mậu dịch giữa hai nước tăng nhanh từ năm
2000 nhưng ngày càng mất quân bình. Do nhập khẩu tăng nhanh, nhập siêu của Việt
Nam đối với Trung Quốc ngày càng mở rộng. Hiện nay nhập siêu của Việt Nam đối
với thế giới chủ yếu là nhập siêu với Trung Quốc.
Nhìn cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường
Trung Quốc ta thấy nguyên liệu và nông sản phẩm chiếm vị trí áp đảo. Cơ cấu này
hầu như không thay đổi trong 10 năm qua. Nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc
thì hầu hết là hàng công nghiệp. Các loại máy móc và các sản phẩm trung gian như
sắt thép, thậm chí các loại vải để dệt may là những mặt hàng nhập khẩu chính.
Theo Hiệp định thương mại ASEAN – Trung Quốc, đến năm 2015 Việt Nam sẽ bãi bỏ
hàng rào quan thuế trên hầu hết các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, tình hình
sẽ càng bi đát hơn nữa. Con đường công nghiệp hóa của Việt Nam sẽ rất khó khăn.
Nhưng chính phủ Việt Nam không thấy nguy cơ đó dù đã được trí thức trong và
ngoài nước cảnh báo nhiều lần. Ngược lại nhà nước còn cho tiến hành khai thác
bô-xit để xuất khẩu sang Trung Quốc làm cho cơ cấu ngoại thương hiện nay đã bất
lợi càng trở nên bất lợi hơn. Cần nói thêm rằng tính chất của ngoại thương Việt
Trung hiện nay là quan hệ của một nước tiên tiến với một nước chậm phát triển.
Tính chất này vừa tạo ra khó khăn cho kinh tế Việt Nam vừa làm hình ảnh Việt Nam
trên thế giới xấu đi nhiều.
Thách thức từ Trung Quốc không chỉ trong ngoại thương.
Các công ty Trung Quốc thắng thầu phần lớn các dự án trọng điểm quốc gia của
Việt Nam. Trung Quốc với lối làm ăn không minh bạch, sẵn sàng mua chuộc, lại
quả, nên dễ thắng phần lớn các gói thầu lớn ở Việt Nam. Theo ước tính, Trung
Quốc chiếm khoảng 50% giá trị thầu trong vòng 10 năm nay, đặc biệt Trung Quốc
thắng thầu tới 90% các dự án trọng điểm về điện, dầu khí, viễn thông, cơ khí,
hóa chất và 100% dự án khai khoáng. Trong việc thực hiện các dự án này, Trung
Quốc đưa nhiều lao động đi theo, kể cả các hình thức bất hợp pháp, thậm chí hình
thành những khu cư trú đặc biệt cho người Hoa. Ngoài ra, nhiều chính quyền địa
phương còn cho công ty Trung Quốc thuê rừng, thuê bờ biển hàng nửa thế kỷ, kể cả
những nơi nhạy cảm nhìn từ góc độ an ninh quốc gia.
Một vấn đề nữa là Việt Nam ngày càng vay nợ từ Trung
Quốc. Theo số liệu chính thức của Bộ Tài chính Việt Nam, nợ từ Trung Quốc tăng
rất nhanh, gấp 10 lần trong 4 năm gần đây (1,4 tỉ USD năm 2009). Nếu khuynh
hướng này tiếp tục, chẳng bao lâu Trung Quốc sẽ trở thành chủ nợ lớn nhất và lớn
áp đảo đối với Việt Nam.
Quan hệ Việt Trung cũng ảnh hưởng nhiều đến đường lối
đối ngoại của Việt Nam. Vấn đề này sẽ được bàn riêng trong một mục ở phần
D.
Trong thời đại hội nhập, quan hệ đối ngoại của Việt Nam
như được trình bày trên đây hoàn toàn không lành mạnh, ảnh hưởng đến con đường
phát triển sắp tới của Việt Nam và tiềm ẩn nguy cơ mất chủ quyền. Yếu tố nào gây
ra tình trạng đáng lo này? Có thể kể hai nguyên nhân chính:
Thứ nhất, nội lực của Việt Nam quá yếu nên khi hội nhập
với thế giới không hoặc ít tranh thủ được thời cơ từ ngoại lực để phát triển,
ngược lại bị ngoại lực chi phối. Thị trường Trung Quốc lớn và rộng nhưng hàng
hóa của Việt Nam không chen vào được. Nội lực yếu vì sao? Vì trình độ của nhiều
lãnh đạo và quan chức có hạn, không ít trường hợp họ không vì dân vì nước mà vì
lợi ích riêng, sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho nước ngoài dù thấy bất lợi
cho xã hội, cho đất nước. Mở tung cửa thị trường cho hàng hóa và tư bản nước
ngoài mà không định hướng để phát triển những ngành mới và có sức cạnh tranh
trên thị trường thế giới, không đi kèm các luật lệ, quy định cần thiết để giám
sát cũng là một biểu hiệu yếu kém của nội lực.
Thứ hai, trong lúc nội lực của Việt Nam còn quá yếu,
quan hệ “đặc biệt” với Trung Quốc càng làm cho Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào
nước này. Kinh tế Trung Quốc lớn, mạnh áp đảo, phát triển nhanh, và lại ở cận kề
Việt Nam, trong khi kinh tế Việt Nam nhỏ yếu, phát triển chậm hơn mà Việt Nam
lại sẵn sàng đồng ý “hợp tác toàn diện” (4 trong 16 chữ vàng), tạo mọi điều kiện
để hợp tác toàn diện thì dẫn đến kết quả như đã thấy.
7. Tổng kết: Đâu là những nguyên nhân sâu
xa?
Trên đây chúng tôi đã điểm qua thực trạng kinh tế, văn
hóa, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học và đối ngoại của Việt Nam hiện nay và
trình bày một số nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng đó. Nổi lên trên hết là
hai nguyên nhân cơ bản, chung cho tất cả các mặt của xã hội:
Thứ nhất, thể chế còn thiếu dân chủ. Có thể nói rằng
thể chế hiện nay là di sản của thời chiến tranh, bao cấp và chủ nghĩa xã hội
kiểu Lênin-Stalin, với đặc điểm cơ bản là hạn chế dân chủ, hạn chế tự do tư
tưởng, thiếu tinh thần thượng tôn pháp luật. Hệ quả là xã hội suy giảm tính năng
động và hiệu quả, hạn chế sáng tạo trong khoa học và giáo dục, không chống được
suy thoái giá trị đạo đức và văn hóa, bất công và cách biệt xã hội tăng lên, và
không khuyến khích việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước để
phát triển. Chế độ tiền lương bất hợp lí trong cơ chế “xin cho” đã đẩy nhiều
công chức vào con đường tham nhũng, và làm cho nhiều nhà giáo, bác sĩ, nhà khoa
học, … không chuyên tâm với nghề nghiệp và không giữ được đức tính cao đẹp vốn
có từ xưa. Hoàn toàn đáng lo ngại khi thể chế hiện nay đang hạn chế sức mạnh của
đất nước và làm lung lay nền tảng của xã hội.
Thứ hai, là hệ quả của nguyên nhân thứ nhất, trong
thành phần lãnh đạo đất nước chưa có nhiều người tài giỏi, bản lĩnh, chịu trách
nhiệm cao và quy tụ được bên mình những trí thức và cộng sự chân chính. Từ trung
ương đến địa phương, nhiều quan chức thiếu cả năng lực và đạo đức cần thiết.
Tình trạng bằng cấp giả và chạy chức chạy quyền đã trở thành vấn nạn nhức nhối.
Việc lợi dụng vị trí công quyền để trục lợi cá nhân đang là hiện tượng phổ biến
ở nhiều cán bộ nhà nước.
D. Cải cách vì một nước Việt Nam giàu mạnh và tự chủ
1. Cải cách thể chế là quan trọng
nhất
Có thể nói Việt Nam chúng ta đang đứng trước một bước
ngoặt lịch sử. Phải có cuộc cách mạng về thể chế mới tránh được nguy cơ này và
đưa đất nước phát triển bền vững. Ai sẽ đảm nhận cuộc cách mạng mới này và nội
dung cốt lõi của cuộc cách mạng là gì?
Chúng tôi cho rằng ở thời điểm này chỉ có Đảng Cộng sản
Việt Nam mới thực hiện được cuộc cách mạng này. Đảng Cộng sản Việt Nam cần tự
thay đổi để lãnh đạo dân tộc bước vào một thời đại mới, thời đại củng cố và phát
huy sức mạnh của toàn dân tộc để đất nước trở nên giàu mạnh, tự chủ. Đó cũng
chính là sức mạnh to lớn mà Đảng cộng sản Việt Nam (trước đây là Đảng Lao động
Việt Nam) đã phát huy, đã phấn đấu, hy sinh trong suốt lịch sử đấu tranh giải
phóng dân tộc. Cuộc cách mạng thể chế này, theo chúng tôi, bao gồm những khía
cạnh sau:
Thứ nhất, không áp đặt một hệ tư tưởng, một ý thức hệ
duy nhất vào thể chế chính trị, vào đời sống của dân, vào các hoạt động kinh tế
– giáo dục – văn hóa – báo chí, để tạo điều kiện cho người dân, nhất là giới trẻ
tiếp cận được những tinh hoa, những tiến bộ của thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh
nếu chỉ biết Mác-Lênin, không tiếp thu mọi tư tưởng tiến bộ của thế giới thì đã
không viết được bản Tuyên ngôn độc lập gói ghém những giá trị phổ quát của nhân
loại. Trên thực tế, chính Đảng Cộng sản đã từ bỏ nhiều khẩu hiệu phi lý một thời
đã được cường điệu. Chẳng hạn “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” từng là một
trong những khẩu hiệu được phổ biến rộng rãi (sau năm 1975) nhưng đã dần dần
biến mất. Đó là một sự thay đổi tích cực cần ghi nhận. Mong rằng Đảng Cộng sản
tiến thêm một bước tránh dùng các cụm từ như “nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa”, “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” để các thế lực bảo thủ
vì lợi ích riêng không thể dựa vào đó để làm cho đất nước trì trệ, lạc hậu.
Chúng tôi cho rằng Đảng Cộng sản chỉ giữ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” là hợp lòng dân.
Ra khỏi sự ràng buộc vào một ý thức hệ cũng sẽ giúp cho
Việt Nam độc lập với Trung Quốc về mặt này và đi trước Trung Quốc về cải cách
thể chế. Làm được điều này, Đảng Cộng sản vừa được lòng dân vừa tạo được uy tín
trên thế giới.
Thứ hai, phải triệt để thực hiện dân chủ, đúng
như quy định của Hiến pháp và đúng như trong Cương lĩnh mà Đảng Cộng sản Việt
Nam đề ra. Đảng phải làm thế nào để nhân dân thấy rằng đó không phải là khẩu
hiệu mà chính là khát khao, trăn trở thường xuyên của lãnh đạo, của nhà cầm
quyền để mọi người dân thật sự được tham gia bàn bạc và quyết định việc chung.
Để thực hiện dân chủ trong khuôn khổ pháp lý hiện nay, chỉ cần triển khai và
thật sự áp dụng nội dung của Hiến pháp.
Trước hết, phải thực sự tôn trọng các quyền mà Hiến
pháp đã ghi rõ, đặc biệt là quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận và quyền bình
đẳng trước pháp luật. Đầu tiên là quyền tự do báo chí. Muốn biết một nước có dân
chủ hay không, chỉ cần nhìn tình trạng báo chí là thấy. Mà tình trạng báo chí
trong nước ta thì nhân dân thấy rõ là chưa làm được nhiệm vụ thông tin trung
thực và soi sáng được dư luận. Tiếp theo là quyền bình đẳng trước pháp luật.
Bình đẳng trước pháp luật có nghĩa rằng luật pháp là ở trên cao nhất, tối
thượng, ai cũng ngang nhau và đều ở dưới pháp luật. Vậy mà nhân dân thấy quá
nhiều người có quyền chức tự cho mình quyền đứng cao hơn người khác, thậm chí
cao hơn cả pháp luật. Như vậy là ta chưa tiến được bước nào, thậm chí còn đi
lùi, trên con đường “nhà nước pháp quyền” mà chính Hiến pháp đã đề xuất. Bình
đẳng trước pháp luật bao hàm bình đẳng trước công vụ như một hệ quả tất nhiên.
Do đó, những phân biệt đối xử như lý lịch, đảng viên hay không, đều là trái với
Hiến pháp. Bình đẳng trước công vụ, ai cũng có quyền bầu cử, ứng cử như nhau, ai
cũng phải được tuyển dụng vào các cơ quan hành chính trên cơ sở duy nhất là năng
lực và tinh thần trách nhiệm. Chỉ với biện pháp đó, thực hiện triệt để, nền hành
chính của ta, từ trung ương đến địa phương, mới có thể tuyển dụng được người tài
giỏi xứng đáng.
|
Mon Jan 2, 2012 8:56 am
Tim Phamvu
t4phamvu Offline Send Email |
Author | Sort by Date | ||||
---|---|---|---|---|---|
Tim Phamvu t4phamvu |
Jan 2, 2012 8:59 am | ||||
Loc Dang locdang51 |
Jan 2, 2012 9:52 am | ||||
Phuoc Bui Quang pbuiquan@... |
Jan 2, 2012 3:41 pm | ||||
D. Nguyen dmasayuki |
Jan 2, 2012 5:23 pm | ||||
qui nguyen quinguyen_vic |
Jan 2, 2012 11:00 pm | ||||
D. Nguyen dmasayuki |
Jan 3, 2012 7:06 am | ||||
No comments:
Post a Comment