Monday, November 7, 2011

NHỮNG BÍ ẨN CHƯA CÓ LỜI GIẢI ĐOÁN

.Bí ẩn trở về của Smith,và Coutts của tàu Titanic sau 80 năm {1912}.
.Bí ẩn của "lỗ hổng thời gian" . 
Những năm gần đây, giới học giả chuyên nghiên cứu bí ẩn siêu nhiên ở châu Âu và Mỹ xôn xao bàn tán về các hiện tượng có liên quan đến "lỗ hổng thời gian" và "sự mất tích - tái hiện" một cách thần bí. Người ta cố gắng vận dụng mọi kiến thức để giải thích được những hiện tượng này.
Ngày 14/04/1912, con tàu thủy siêu cấp Titanic trong chuyến đi đầu tiên đã gặp nạn do va phải băng, khiến 1.500 người mất tích. Vậy mà vào giữa năm 1990 và 1991, tại khu vực gần núi băng Bắc Đại Tây Dương, người ta đã phát hiện và cứu sống hai nhân vật đã biến mất cùng con tàu Titanic gần 80 năm về trước.

Hai nhà thơ cộng sản: XUÂN DIỆU & Tế Hanh (3)

Tế Hanh, "người Do Thái lang thang" trên đất Bắc
Thật tình, đối với các nhà thơ tiền chiến theo Cộng Sản, tôi ít khi nhớ tới Tế Hanh. Điều đó dễ hiểu vì hầu hết những nhà thơ nầy đều phản thùng nên nhớ tới họ làm chi?! Khi còn trẻ, càng ngưỡng mộ họ bao nhiêu thì khi lớn lên, đọc những câu thơ như "Thắp đèn cho sáng ba gian, Lôi mi ra giữa đình làng đêm nay," hay bài "Trước đây ba tháng" của Xuân Diệu tôi thấy thất vọng vô cùng. Thơ thẩn mà như thế thì còn nhắc đến họ làm gì!
Bỗng nhiên, mới đây, tôi nghe tin Tế Hanh từ trần.
Có lẽ ông nầy cũng khác chút ít với mấy ông kia!
Khác cái gì?

Hai nhà thơ cộng sản: XUÂN DIỆU & Tế Hanh (2)


(Tuy nhiên, vào lúc đã ra được 10 số đầu, tờ tuần báo của Hội Nhà văn như bị dội nước lạnh khi trên tạp chí Học tập, cơ quan lý luận chính trị của trung ương Đảng Lao động VN, số 7/1957, xuất hiện bàiTuần báo Văn và con người thời đại  của tác giả Thế Toàn (Trịnh Xuân An), theo đó, những sáng tác đăng tải trên 10 số Văn đầu tiên được đánh giá khá tiêu cực: chủ đề của nhiều văn, thơ đăng ở đây "toàn là những thứ lượm lặt ngoài rìa cuộc sống", "không ăn nhập gì với cuộc sống, không dính dáng gì đến những con người vĩ đại và dũng cảm của thời đại chúng ta"; tóm lại, theo Thế Toàn, "Tờ báo hầu như xa rời thực tế, xa rời cuộc sống, tách rời những nhiệm vụ trung tâm của cách mạng". )  

Viện nghiên cứu xã hội học Hoa Kỳ liệt kê 10 tố chất cơ bản của người Việt

Viện nghiên cứu xã hội học Hoa Kỳ liệt kê 10 tố chất cơ bản của người Việt
TS. Lê Văn Út, ĐH Oulu, Phần Lan
6.11.2011
 
According to the American Institute of Social Research, the Vietnamese people have 10 major characteristics.
1.   First, they are hard working but easy to satisfy.
2.   Second, they are smart and creative to cope with short-termed difficulties, but lack long-termed and active reasoning abilities.
3.   Third, they are dexterous but hardly pay attention to the final perfection of their products.
4.   Fourth, they are both practical and idealistic, but don't develop either of these tendencies into theories.
5.   Fifth, they love knowledge and have quick understanding, but hardly learn from the beginning to the end of things, so their knowledge isn't systemic or fundamental.   In addition, Vietnamese people don't study just for the sake of knowledge (when small, they study because of their families; growing up, they study for the sake of prestige or good jobs).
6.   Sixth, they are open-hearted and hospital, but their hospitality doesn't last.
7.   Seventh, they are thrifty, but many times squander money for meaningless reasons (to save face or to show off).
8.   Eighth, they have solidarity and help each other chiefly in difficult situations and poverty; in better conditions, this characteristic rarely exists.
9.   They love peace, and can endure things, but they are often not frank for sundry reasons, so sacrifice important goals for the sake of small ones.
10.  And last, they like to gather, but lack connectivity to create strength (one person can complete a task excellently; 2 people do it poorly, and 3 people make a mess of it).
*
Theo Viện nghiên cứu xã hội học Hoa Kỳ thì người Việt có 10 tố chất cơ bản sau:
 
1.   Cần cù lao động song dễ thỏa mãn nên tâm lý hưởng thụ còn nặng.
2.    Thông minh, sáng tạo, song chỉ có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động.
3.    Khéo léo, song không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm).
4.   Vừa thực tế, vừa mơ mộng, song lại không có ý thức nâng lên thành lý luận.
5.   Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh, song ít khi học "đến đầu đến đuôi" nên kiến thức không hệ thống, mất cơ bản. Ngoài ra, học tập không phải là mục tiêu tự thân của mỗi người Việt Nam (nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm, ít vì chí khí, đam mê).
6.    Xởi lởi, chiều khách, song không bền.
7.   Tiết kiệm, song nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời).
8.   Có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh, trường hợp khó khăn, bần hàn, còn trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này rất ít xuất hiện.
9.   Yêu hòa bình, nhẫn nhịn, song nhiều khi lại hiếu thắng vì những lý do tự ái, lặt vặt, để tiểu cục làm mất đại cục.
10.   Thích tụ tập, nhưng lại thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh (cùng một việc, một người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng).
 *