(Tuy nhiên, vào lúc đã ra được 10 số đầu, tờ tuần báo của Hội Nhà văn như bị dội nước lạnh khi trên tạp chí Học tập, cơ quan lý luận chính trị của trung ương Đảng Lao động VN, số 7/1957, xuất hiện bàiTuần báo Văn và con người thời đại của tác giả Thế Toàn (Trịnh Xuân An), theo đó, những sáng tác đăng tải trên 10 số Văn đầu tiên được đánh giá khá tiêu cực: chủ đề của nhiều văn, thơ đăng ở đây "toàn là những thứ lượm lặt ngoài rìa cuộc sống", "không ăn nhập gì với cuộc sống, không dính dáng gì đến những con người vĩ đại và dũng cảm của thời đại chúng ta"; tóm lại, theo Thế Toàn, "Tờ báo hầu như xa rời thực tế, xa rời cuộc sống, tách rời những nhiệm vụ trung tâm của cách mạng". )
Trước sự phê bình của tạp chí Học tập, ban biên tập tuần báo Văn và không ít nhà văn đã có phản ứng khá gay gắt. Lần lượt, các ý kiến của thư ký tòa soạn Nguyên Hồng (Tuần báo Văn và một số bài của báo cần được nhận định như thế nào? // Văn số 15, ngày 16/8/1957), của Nguyễn Văn Bổng (Nhận lại phương hướng qua việc phê bình tuần báo Văn // Văn số 20, ngày 20/9/1957), Lê Minh (Xây dựng con người thời đại // Văn số 21, ngày 27/9/1957), Tô Hoài (Góp thêm vài ý kiến về con người thời đại // Văn số 22, ngày 4/10/1957), Nguyễn Tuân (Phê bình nhất định là khó // Văn số 23, ngày 11/10/1957), Tế Hanh (Cùng đặt một số vấn đề // Văn số 26, ngày 1/11/1957), ở những mức độ khác nhau, hầu hết (đúng ra, trừ một số ý trong bài của Nguyễn Văn Bổng) đều bộc lộ thái độ không tán đồng sự phê bình của tạp chí Học tập.
Việc những người chủ trì báo Văn coi sự góp ý của tạp chí Học tập chỉ như sự phê bình của tờ "báo bạn", của "đồng nghiệp" − có lẽ đặc biệt gây tự ái nơi tâm lý những người nhân danh báo chí của Đảng cầm quyền. Dưới dạng một bài đọc sách, − đây là bài nói chuyện của Trường Chinh tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần II được in thành sách riêng, − hai nhà báo của tạp chí Học tập, Hồng Chương và Trịnh Xuân An, lên tiếng nhắc nhở các nhà văn và Ban biên tập tuần báo Văn; nhan đề bài viết (Học tập, số 8, tháng 8/1957) được hai ông này đặt bằng mệnh lệnh thức: Phải thấu suốt đường lối văn nghệ của Đảng. Bút ký sau khi đọc cuốn "Phấn đấu cho một nền văn nghệ dân tộc phong phú dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội" của đồng chí Trường Chinh, trong đó đặc biệt nhấn mạnh việc cần phê phán ảnh hưởng của tư tưởng tư sản trong sáng tác văn nghệ. Ý nghĩa cảnh cáo lộ rõ trong đoạn kết:
"Chúng ta cần kiên quyết đấu tranh chống những thiên hướng lệch lạc đi trệch ra ngoài đường lối văn nghệ của Đảng. Chúng ta cũng kiên quyết phản đối thái độ của một số cán bộ đảng viên phụ trách văn nghệ phạm khuyết điểm sai lầm được báo chí Đảng giúp đỡ phát hiện khuyết điểm sai lầm mà không chịu khiêm tốn kiểm điểm và thành tâm sửa chữa, trái lại, lại đả kích và mạt sát báo chí Đảng. Thái độ đó rõ ràng là không lợi cho việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn nghệ."
Nhận xét về cách phê bình của hai ký giả trên tạp chí Học tập, Nguyễn Tuân (báo Văn số 23) nhắc lại mấy câu hỏi của Nguyên Hồng (thư ký tòa soạn báo "Văn" ): "Có phải vì giáo điều, sơ lược, công thức, nên mới có sự nhận thức và phê phán như thế? Có phải vì tác phong quan liêu, trịch thượng và cái lối đao to búa lớn nên mới có sự nhận xét như thế?", và Nguyễn Tuân tỏ rõ ý kiến mình:
"Trong việc đánh giá, đặc biệt nhất là ba ông Thế Toàn, Hồng Chương và Trịnh Xuân An đã có những "thái độ trịch thượng và cái lối nói đao to búa lớn". Tôi cũng đồng ý với ông thư ký tòa soạn báo Văn về cái nhận xét này. Thêm nữa, cá nhân tôi lại còn cảm thấy mấy ông đó đã làm cho người đọc phải hiểu rằng các ông đang lấy Đảng ra để "dọa" anh em viết bài báo".
Đáp lại sự nhận xét trịch thượng cho rằng giới nhà văn chưa biểu hiện được "con người thời đại", Nguyễn Tuân lên tiếng như là tiếng nói chung của giới mình:
"Theo chỗ tôi biết thì đã có một số hiện tượng hách dịch đối với văn nghệ phẩm, xuất phát từ một số người phê bình cũng như từ một số cán bộ chính trị. Tôi rất đồng ý là văn nghệ sĩ, mà nhất là văn nghệ sĩ có tài, càng cần phải khiêm tốn. Nhưng chung quanh, nhất là những người có trách nhiệm về phán đoán cái này cái kia, đề nghị cũng làm như vậy cho. Tôi tán thành cái ý kiến là những "sĩ" của các ngành văn nghệ chúng ta chưa có gì là ghê gớm lắm đâu, về trình độ tư tưởng trình độ văn hóa trình độ nghề nghiệp còn phải học cho nát xương lòi da ra, học cho đến chết mà chắc gì đã nắm hết được quy luật của sự sống. Nhưng cũng không nên vì nó chỉ là "sĩ" của Việt Nam mà đánh giá nó quá thấp quá tồi về khả năng nhạy cảm đối với thực tế khách quan, cho nó là mít là xoài tất trong mọi cảm xúc phiền toái và vĩ đại của thời đại vừa gieo neo vừa lớn lao hiện nay của chúng ta. Trong mọi thực tiễn Việt Nam nói chung các mặt, nếu đã có những tác giả còn non nớt, nếu đã có những tác phẩm yếu xoàng, thì cũng đã có một số cán bộ thực hiện chính trị một cách cũng không được cao tay gì lắm. Đối với nghệ phẩm, anh đến với nó (nhất là thứ tạo ra ở bản xứ) mà anh tham lam quá đáng hoặc hung hăng một cách không cần thiết, thì nó biến mất…."
Lúc này, đến lượt Tạp chí Văn nghệ vào cuộc. Tạp chí này, chủ nhiệm là Đặng Thai Mai, thư ký tòa soạn là Nguyễn Đình Thi, đã tái xuất hiện từ tháng 6/1957 với tư cách cơ quan của Hội Liên hiêp Văn học nghệ thuật Việt Nam, ra hàng tháng, đánh số từ số 1 nhưng ghi rõ trên manchette là tờ tạp chí "xuất bản từ 1948 trong kháng chiến". Chính trên tạp chí này, dù chỉ vừa mới xuất hiện trở lại, cũng đã kịp có những bài phê phán những sáng tác bị coi là có những lệch lạc về tư tưởng, ví dụ Thao thức của Đoàn Giỏi (bài phê bình của Nguyễn Văn Bổng, TCVN s. 5, th. 10/1957), Một ngày chủ nhật của Nguyễn Huy Tưởng (bài phê bình của Vũ Đức Phúc, TCVN s. 7, th. 12/1957).
Bài báo dài Tuần báo Văn với phương hướng sáng tác và phê bình hiện nay (Tạp chí Văn nghệ số 5, tháng 10/1957, tr. 113-136) của nhà phê bình Nguyễn Đình Thi, thư ký tòa soạn tạp chí Văn nghệ, tất nhiên là không tách rời tư cách Tổng thư ký Hội LHVHNTVN của ông khi đó (cũng như Nguyễn Tuân khi lên tiếng ủng hộ Nguyên Hồng thì ông Tuân vẫn đang là Phó chủ tịch Hội LHVHNTVN).
Có phần tán thành nhận định của Thế Toàn và Nguyễn Văn Bổng, đề cập đến các sáng tác đăng 10 số đầu báo Văn, Nguyễn Đình Thi cho rằng "Chúng ta chưa nhìn rõ cái thực tế tiến dần lên chủ nghĩa xã hội của đời sống chung quanh ta được báo Văn phản ánh lên thế nào" … "Tình hình đó không thể coi là bình thường được". Nguyễn Đình Thi còn phân tích đánh giá về một số bài đăng trên các số Văn, trong đó đặc biệt tỏ rõ dị ứng với các bài thơ Một giọng đàn, một dòng sông (Hoàng Yến, s. 5), In dấu chân (Hoàng Cầm, s. 15), Lời mẹ dặn (Phùng Quán, s. 21), hoặc ý kiến của Trần Dần Nhìn lướt qua thơ văn gần đây (s. 12). Tuy vậy, cũng có phần chia sẻ với Nguyên Hồng trong phản ứng trước sự phê bình đầy công thức và máy móc của tạp chí "Học tập"; Nguyễn Đình Thi viết:
"Nguyên Hồng phản ứng mạnh với cái khuynh hướng máy móc, giáo điều nó quan niệm con người mới trong văn học nghệ thuật như một thứ người gỗ, mà không hiểu nổi cái phức tạp phong phú của đời sống và tâm hồn con người, nó cũng không hiểu văn học nghệ thuật và không nắm được cái thực tế đang chuyển biến của sự sáng tác. Cái khuynh hướng cứng nhắc ấy, chúng ta đã phê phán nó khá nhiều trong thời gian vừa qua, nhưng không phải đã hết. Nó duy trì những bệnh sơ lược, khái niệm, những thái độ đơn giản và độc đoán trong vấn đề tư tưởng và nghệ thuật. Cái khuynh hướng máy móc đơn giản ấy đã có biểu hiện trong bài của Thế Toàn, rõ rệt nhất là trong những nhận xét của Thế Toàn về mấy bài như Phở, Gió, Bích-xu-ra, v.v… Và cái thái độ gò ép, áp đảo ấy cũng thấy trong một bài của Hồng Chương và Trịnh Xuân An tiếp theo bài của Thế Toàn trên tạp chí Học tập số 8. Tôi cho thái độ đó là không đúng".(12)
Chỉ tìm hiểu qua những gì đăng báo còn lại đến hôm nay thì hẳn là khó có thể biết hết những gì đã thực sự diễn ra trong đời sống thực của văn nghệ một thời đã qua. Nhưng người đang viết những dòng này chưa có thêm phương tiện gì khác hơn là tài liệu in công khai còn lại trên giấy báo. Dù sao cũng có thể thấy những thị uy và uốn nắn đối với tuần báo Văn đã không gây được hiệu quả cụ thể. Nói như Tế Hanh, trong số bài vở đăng trên tuần báo "Văn", "những bài Nguyễn Đình Thi cho tốt không phải ít hơn những bài xấu, kể cả trong 10 số đầu. Thế thì nên kết luận thế nào?"
Rất có thể vì vậy, tuần báo Văn cứ đi tiếp nhịp đi của mình. Trong số những tác phẩm được đăng trên tờ này sẽ có thêm khá nhiều những thảo luận về các vấn đề của thơ, thảo luận về việc nên hay không nên tái bản các tác phẩm ra đời trước cách mạng, sẽ đăng thơ của Xuân Diệu, Quang Dũng, Hữu Loan, Hoàng Trung Thông, Trần Dần, Lê Đạt…, văn của Nguyễn Huy Tưởng, Bùi Hiển, Hồ Dzếnh, Thụy An, Nguyễn Dậu, Trần Dũng Tiến,…, tiểu luận phê bình của Nguyễn Tuân, Trương Chính, Trần Thanh Mại, v.v… Trong số những tác phẩm đăng lần đầu ở đây, sẽ được nhắc nhở sau này là các tác phẩm như thơ Hãy đi mãi (Trần Dần, s. 28, ngày 15/11/1957), Lời mẹ dặn (Phùng Quán, s. 21, ngày 27/9/1957), Bão (Tế Hanh, s. 32, ngày 13/12/1957), văn: Đống máy (Minh Hoàng, s. 34, ngày 27/12/1957), Ông Năm Chuột (Phan Khôi, s. 36, ngày 10/1/1958), là truyện dịch Phòng số 6 của Chékhov đăng liền hơn 10 số đầu, là các tiểu luận Nguyễn Tuân viết về văn Thạch Lam, về Kim tiền của Vi Huyền Đắc, v.v…
Tất nhiên không khó để trừng trị những nhà văn cứng đầu ở tuần báo "Văn"; và trong việc này, tờ Học tập ra hàng tháng không thể thuận lợi so với tờ Nhân dân ra hàng ngày. Từ cuối tháng 11/1957, hàng loạt bài vở các loại từ tờ nhật báo lớn nhất miền Bắc lúc ấy chĩa mũi nhọn vào báo Văn. Ban đầu nhắm vào từng tác phẩm cụ thể, ví dụ thơ Lời mẹ dặn (bài của Trúc Chi, Nhân dân, 24/11/1957), tranh biếm họa "Phương pháp xây dựng văn nghệ" của Trần Duy (bài của Phượng Kim, Nhân dân 8/12/1957), truyện ngắn "Đống máy" (bài của Đặng Phò, Nhân dân 12/1/1957), gợi cho dư luận sự gắn nối "Văn" với "Nhân văn" (Chiến Kỳ: Chặn ngay những quan điểm nghệ thuật của nhóm "Nhân văn" đang định sống lại trên báo "Văn", Quân đội nhân dân, 21/1 và 24/1/1958; Vũ Đức Phúc: Từ "Con người Trần Dần" đến "Đống máy", Nhân dân 2/2 và 3/2/1958). Lại còn mượn đến những tên tuổi nào đó, nói rằng đó là của "anh em ở miền Nam" (Một bức thư của anh em từ Sài Gòn gửi cho chúng ta: D. và T.: Chúng tôi không đồng ý với báo "Văn"/ Nhân dân 17/1 và 18/1/1958). Rồi tiến tới nhận định bao quát (bài của Như Phong: Góp ý kiến với các đồng chí có trách nhiệm ở báo "Văn"/ Nhân dân, 9/2, 10/2, 11/2 và 12/2/1958). Sau nữa là đăng tự kiểm điểm của một số "yếu nhân" của báo "Văn" dưới tiêu đề Các đồng chí ở báo "Văn" bắt đầu tự phê bình, lần lượt là Nguyên Hồng (Nhân dân 2/3/1958), Tô Hoài (Nhân dân 12/3/1958), Tế Hanh (Nhân dân 14/3/1958); lại nữa, không kiềm chế lời mạ lỵ nếu sự tự phê bình của họ chưa được coi là thành khẩn (câu viết sau đây cho thấy sự hạ nhục người bị phê bình:"trường hợp Nguyên Hồng, vì thái độ chưa thật thà thành khẩn và cũng vì trình độ nhận thức quá thấp nên mức tiếp thu rất hời hợt" − N.D., Để chuẩn bị một thời kỳ văn học nghệ thuật phát triển tươi tốt hơn nữa/ Nhân dân 9/3/1958).
Bên cạnh báo Nhân dân, tham gia phê bình báo "Văn" còn có nhiều báo khác: báo Quân đội nhân dân với các bài của Hồng Cương, Chiến Kỳ; báo Cứu quốc với các bài của Đông Hoài, Bùi Huy Phồn, Đặng Vũ Khiêu, Tú Mỡ, Nguyễn Mạnh Hào, Nguyễn Kiến Giang, v.v…; báo Tổ quốc với các bài của Ngô Linh Ngọc, Thiếu Khanh, Bảo Nguyên, Phi Trưởng, v.v…; báo Thống nhất với các bài của Trịnh Xuân An, Hồng Chương, Vũ Đức Phúc, Lê Xuân Vũ, v.v…
Trên thực tế, việc phê bình tuần báo "Văn" chuyển dần hòa dần vào đợt đấu tranh chống Nhân văn – Giai phẩm diễn ra liền sau đó.
Ở tuần báo "Văn" số 37 (ngày 17/1/1958), tòa soạn có lời "kính gửi các bạn yêu quý của báo Văn", theo đó, "sau 8 tháng làm việc, báo Văn thấy cần phải kiểm điểm công tác trong thời gian qua, rút kinh nghiệm cho công việc mới, chấn chỉnh mọi mặt,… vì lẽ đó, báo sẽ nghỉ 2 kỳ …." Trên thực tế, đấy chính là lời cáo chung của tờ tuần báo này; lời hẹn của báo về tờ "Văn" số tết cũng không thành sự thực vì BCH Hội nhà văn không cho phép thực hiện.(12b)
Ngày 6/1/1958, Bộ chính trị trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra nghị quyết Về việc chấn chỉnh công tác văn nghệ, phát động một chiến dịch đấu tranh tư tưởng "quét sạch tư tưởng "Nhân văn" là biểu hiện của tư tưởng thù địch về mặt chính trị, đồng thời cũng là biểu hiện nghiêm trọng của quan điểm văn nghệ tư sản".(13) Những đợt học tập tập trung dài ngày cho văn nghệ sĩ được tổ chức sau đó, − mà về sự việc này người ta chỉ được biết qua một vài hàng tin vắn trên một số tờ báo, − có thể đã là diễn trường chính của cuộc đấu tranh theo chủ trương nói trên; thật ra, người ta chỉ có thể biết đến chúng thông qua phần nổi là những phê phán rầm rộ trên báo chí miền Bắc từ khoảng giữa tháng 2/1958 đến tháng 6/1958.
Sự phê phán, rủa sả và đấu tố rầm rộ này là sự tiếp tục những phê phán đã có từ vài năm trước, nhất là vào cuối năm 1956; song, suốt thời kỳ đó dù sao vẫn nằm trong quy ước của sự phê bình "trong nội bộ nhân dân", tức là ít nhiều còn tôn trọng đối tượng bị phê phán, thậm chí ít nhiều chấp nhận có ý kiến trao đổi qua lại. Nhưng đến lúc này, khi mà người ta đã tuyên bố gạt phía bị phê phán sang hàng ngũ kẻ thù thì chỉ còn sự biểu dương lực lượng của một phía: phía những người phê phán, với số lượng hết sức đông đảo. Trong hàng loạt những ý kiến bày tỏ một phẫn nộ đại chúng này rất khó thẩm định sự thật của những nội dung tố giác, dù nó hệ trọng đến đâu; sự kiện thấy được chỉ là sự tố giác.
Riêng ở giới văn nghệ, có thể hình dung cuộc phê phán này trên Tạp chí Văn nghệ các số 10 (tháng 3/1958), 11 (tháng 4/1958), 12 (tháng 5/1958), 13 (tháng 6/1958), mở đầu bằng bài của Đặng Thai Mai: Căn bản vẫn là vấn đề lập trường tư tưởng, và tạm kết bằng báo cáo của Tố Hữu đọc tại cuộc họp tổng kết hôm 5/6/1958. Trên các bài đấu tranh ấy, những thành viên bị coi là đầu sỏ của nhóm Nhân văn như Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Lê Đạt, Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Trần Duy, Thụy An, Trần Thiếu Bảo bị phê phán như đấu tố kẻ thù, những cây bút liên quan như Phùng Cung, Phùng Quán, Văn Cao, Hoàng Tích Linh, Đặng Đình Hưng, Trần Lê Văn, v. v… cũng không được đối xử tốt hơn.
Như đã biết, sau sự kiện này, Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Thiếu Bảo,(13b) Phùng Cung bị ngồi tù nhiều năm (có nguồn tin cho rằng những người bị tù này là thuộc một vụ án khác, không gắn trực tiếp với các hoạt động Nhân văn, Giai phẩm, song cho đến nay vẫn chưa có sự công khai hóa các tài liệu an ninh và tư pháp liên quan nên chưa thể xác nhận điều này). Riêng trong Hội nhà văn: 3 người gồm Trương Tửu, Thụy An, Phan Khôi "bị khai trừ hẳn ra khỏi hội"; 2 người gồm Trần Dần, Lê Đạt bị khai trừ khỏi hội trong thời hạn 3 năm; Hoàng Cầm bị khai trừ khỏi Ban chấp hành; Hoàng Tích Linh bị cảnh cáo và được rút khỏi Ban chấp hành; Trần Duy bị khai trừ (vĩnh viễn?) ra khỏi hội Mỹ thuật; Tử Phác, Đặng Đình Hưng bị khai trừ 3 năm ra khỏi hội Nhạc sỹ sáng tác; các hội viên khác từng tham gia các số Nhân văn và các tập Giai phẩm (các văn bản thường không nêu tên) bị cảnh cáo.(14) Tuy nhiên, những hình phạt mà ban đầu hoặc mang dạng án phạt của luật pháp, hoặc có khi chỉ là kỷ luật trong nội bộ đoàn thể (khai trừ, treo bút,…) kết hợp với xử lý hành chính (buộc cư trú xa thủ đô, bị theo dõi bí mật, buộc theo các nhóm văn nghệ sĩ đi lao động thực tế xuống các địa phương …) trong thực tế đời sống miền Bắc những năm về sau (1958-85) sẽ trở thành những trừng phạt vĩnh viễn về mặt xã hội và công dân. Ấy là chưa nói đến không ít những người khác, vốn không dính líu gì tới sự kiện này, về sau sẽ vô tình trở thành liên lụy, bị tù đày hoặc phân biệt đối xử.(15)
Một vài diễn biến bề sâu của cuộc đấu tranh ấy, từ khoảng những năm 1990 cũng đôi khi được hé lộ lẻ tẻ qua một vài hồi ức.
Sau đợt đấu tranh này, từ 25/5/1958, Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản báo Văn học với thư ký tòa soạn là Nguyễn Đình Thi (chức thư ký tòa soạn Tạp chí Văn nghệ từ tháng 6/1958 chuyển sang cho Hoài Thanh), tự coi là tờ báo hoàn toàn mới "với tinh thần mới và tên mới"; khẩu hiệu "Vì tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội" được gắn lên manchette tờ báo của Hội Nhà văn VN kể từ thời điểm ấy. Trong lời ra mắt của mình, báo Văn học tuyên bố rằng tuần báo Văn trước đây đã "bị tư tưởng Nhân văn lũng đoạn" nên đã xa rời đường lối văn nghệ của Đảng, rằng các trang báo Văn "đã bị hoen ố vì những bài của nhóm Nhân văn" mà sự độc hại của chúng còn cần tiếp tục diệt trừ! Nghĩa là tuần báo Văn không xứng đáng để được kế tục!
Có lẽ, trong lịch sử các cơ quan báo chí của Hội Nhà văn Việt Nam, nếu hầu hết các cơ quan đều được vinh danh, thì chỉ có riêng tuần báo Văn là bị nguyền rủa ngay cả khi nó đã không còn tồn tại.
4b. Bước vào năm 1957, ngòi bút Xuân Diệu hoạt động hăng hái hơn năm trước, với thiên hướng nghiêng hẳn về văn xuôi bút ký, tiểu luận. Bài bút ký Mùa xuân thắng đăng dịp tết (Nhân dân 3/2/1957), một bút ký chính luận, chất ký thua chất luận, in rõ nếp nghĩ của một người sống ở một phe nhìn vào cái thế giới hai phe đối đầu nhau, một người sống ở nửa nước chia cắt nhìn sang nửa nước bên kia theo tầm mắt chính thống của phía bên này, giữa thời chiến tranh lạnh, có lẽ báo trước điều đó.
Xuân Diệu đã dự hội nghị thành lập Hội nhà văn Việt Nam, đọc tham luận Vài ý kiến về vấn đề viết sự thật (đăng Nhân dân, 21/4/1957), được bầu vào ban chấp hành đầu tiên, và như vậy Xuân Diệu là một trong 25 hội viên sáng lập. Nhưng Xuân Diệu không tham gia ban biên tập tuần báo Văn, cũng không tham gia ban phụ trách nhà xuất bản Hội nhà văn. Ông có cộng tác gửi một số bài đăng tuần báo Văn, nhưng nơi ông cộng tác chặt chẽ hơn lại là Tạp chí Văn nghệ của trung ương Hội LHVHNTVN mà Tổng thư ký Hội LHVHNTVN Nguyễn Đình Thi kiêm chức Thư ký tòa soạn, bắt đầu hoạt động chỉ sau tuần báo Văn khoảng nửa tháng.
Trong năm mới này ông vẫn có ít thơ đăng báo, trên tuần báo Văn hầu như chỉ thấy 3 bài: Gió (s. 3), Chuyên chính (s. 26), Hỏi (s. 32) trong đó Chuyên chính là bài thơ nghị luận (… Mặc những kêu rêu lá rụng hoa tàn / Tôi thẳng thắn ngợi ca nền chuyên chính!); trên Tạp chí Văn nghệ cũng thấy có các bài Gửi sông Hiền Lương (s. 2, th. 7/1957), Đi với giòng người (s. 9, th. 2/1958). Một bài như Lệ (Nhân dân, 3/11/1957) có lời đề từ "Tặng Cách mạng tháng Tám và Cách mạng tháng Mười" cho thấy rõ cái tứ chính luận của nó. Trên tờ Văn học mà Hội Nhà văn Việt Nam mới lập ra từ 25/5/1958, Xuân Diệu đã kịp đăng thơ sáng tác (Bia Việt Nam, s. 12, ngày 15/9/58) hoặc thơ dịch (Người vô sản, dịch thơ Ch. Smirnenski, nhà thơ Bulgary, s. 16, ngày 25/10/58). Nhưng chiếm số lượng nhiều nhất trong thời gian này vẫn là các bài bút ký, tiểu luận.
Xin kể các bài chính.
− Vài ý kiến về vấn đề viết sự thật (Nhân dân, 21/4/1957),
− Tuyển tập "Thơ Việt Nam" đối với phong trào thơ (Tạp chí Văn nghệ, s. 1, th. 6/1957),
− Mùa đông 1919, mùa hè 1957 (Văn, s. 8, ngày 28/6/1957),
− Nguyễn Trãi, nhà thơ mở đầu nền văn học cổ điển Việt Nam (Tạp chí Văn nghệ, s. 3, th. 8/1957; bài này đứng tên chung với Huy Cận),
− Cảm tình với Ấn Độ (bút ký, Nhân dân, 14/9/1957),
− Thế nào là cái mới (Tạp chí Văn nghệ, s. 4, th. 9/1957),
− Những bước đường tư tưởng của tôi (Tạp chí Văn nghệ, s. 6, th. 11/1957),
− Nhà thi hào Pháp A-ra-gông sáu mươi tuổi (Tạp chí Văn nghệ, s. 7, th. 12/1957),
− Cái mới của văn học chúng ta (Tạp chí Văn nghệ, s. 8, th. 1/1958),
− Một số vấn đề đấu tranh tư tưởng trong thơ (Tạp chí Văn nghệ, s. 10, th. 3/1958),
− Những biến hóa của chủ nghĩa cá nhân tư sản qua thơ Lê Đạt (Tạp chí Văn nghệ, s. 13, th. 6/1958),
− Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao (Tạp chí Văn nghệ, s. 14, th. 7/1958),
−13 tuổi Tiếng nói Việt Nam (Tạp chí Văn nghệ, s. 17, th. 9/1958).
− Kỷ niệm nhà thơ thiên tài dân tộc Nguyễn Du (nói chuyện tại Nhà hát Lớn Hà Nội ngày 26/9/1958 trong lễ kỷ niệm 138 năm ngày mất Nguyễn Du; đăng Tạp chí Văn nghệ, s. 18, tháng 11/1958)
Phần lớn các bài viết này đến giữa năm 1958 sẽ được in thành cuốn Những bước đường tư tưởng của tôi (tiểu luận phê bình văn học của Xuân Diệu, Nxb. Văn hóa, 159 tr. 13x19cm; in xong ngày 8/5/1958), nằm trong loại sách thời sự, phục vụ cuộc đấu tranh tư tưởng thời gian ấy.
Hãy đọc lướt những điều được đề cập trong loạt bài này.
−Vài ý kiến về vấn đề viết sự thật là tham luận tại hội nghị thành lập Hội nhà văn.
"Chúng ta nói những sự thật là có một mục đích, mục đích làm công tác tư tưởng bằng văn học, nên ta không phải là một người cầm cái máy ảnh tốt rồi bạ cái gì cũng chụp ảnh, cũng in ra. Chúng ta không hoàn toàn đi theo cái chủ nghĩa thành thật, vì chủ nghĩa đó chỉ đúng có một nửa. Nhất định những thơ văn nào chúng ta viết ra đều là máu là huyết của ta, đều là thiết tha, thành thật, mà có thiết tha thành thật thì mới hay được. Nhưng không phải những tình cảm nào thiết tha thành thật đều nên đưa vào thơ văn."
Vì sao vậy? Vì, theo Xuân Diệu, nhà văn không chỉ cần phải là "kỹ sư tâm hồn" mà còn cần phải là "bác sĩ tâm hồn" nữa, cho nên không được để những buồn rầu, tan rã trong hồn mình lây nhiễm sang người đọc.
"Nhà văn hiện nay nên phát hiện nhiều vấn đề mới; nhưng nêu vấn đề ra, nếu chưa giải quyết dứt khoát được, thì ít nhất cũng bao hàm một hướng giải quyết, một thái độ giải quyết. Nếu chỉ nêu vấn đề rồi vứt giữa xã hội thì chỉ tổ gây hoang mang. Vào trong xã hội mà chỉ tin ở sự thành thật theo cảm tính của mình, thậm chí cố tình không mang theo những thứ mà mình cho là tầm thường, như lập trường, như đảng tính, v.v…, thì càng tưởng rằng viết theo sự thật lại càng sai lạc."
Trong một bài rất ngắn, Xuân Diệu đã làm bật được một số ý niệm vốn là chủ trương của cấp trên, lại kết hợp liên hệ phê bình được tư tưởng của Nguyễn Tuân "nhà văn chỉ cần nêu vấn đề", "nhà văn có thể là bác sĩ gọi ra bệnh của bệnh nhân, không nhất thiết phải kê đơn bốc thuốc", mỉa mai được "tiếng sáo tiền kiếp" của Trần Duy, đả kích được Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, chê trách được Một trò chơi nguy hiểm của Nguyễn Thành Long, − những hiện tượng do những người khác phát giác và đã trở thành đối tượng phê phán chung.
−Tuyển tập "Thơ Việt Nam" đối với phong trào thơ là bài nhận xét tuyển tập "Thơ Việt Nam 1945-56"; cách làm của ban tuyển thơ này dựa vào đơn vị tác giả, theo Xuân Diệu nhận định, là không hợp với sự phát triển thơ ca thời kỳ 1945-1956; vì thế ông cho cuốn tuyển này không phản ánh được phong trào thơ của quần chúng, theo ông, là nét nổi trội của thơ Việt Nam thời kỳ 1945-56.
"Ban làm tuyển tập cố nhấn mạnh vào các tài tử đơn ca, trong khi đơn ca chưa nổi bật, mà cái hay, cái đặc điểm của phong trào thì lại là một cuộc hòa tấu phong phú hơn nhiều. Tuyển tập "Thơ Việt Nam" là một cái gương chưa thật đúng và bẻ một nửa của phong trào thơ."
Xuân Diệu dẫn khá nhiều thơ ca ngoài tuyển tập trên để cho thấy là đừng nên vướng vì quan niệm 'tác giả' như ban tuyển này đã mắc, mà nên lấy trọng tâm là phản ánh phong trào thơ; thậm chí ông đưa ra một ý tưởng cực đoan về cách làm tuyển thơ:
"Đến việc sắp xếp các người thơ, tưởng không nên xếp theo a,b,c, mời họ ngồi bàn tròn như thế. Làm như vậy cầu an, tắc trách. Mà phải cố gắng xếp các bài thơ và tác giả theo khuynh hướng, theo thời kỳ, theo nội dung…."
Sau cuốn tuyển mà Xuân Diệu điểm sách như trên, người ta biết,"Tuyển tập thơ Việt Nam 1945-1960" (Hà Nội: Nxb. Văn học, 1960) mà Xuân Diệu tham gia tuyển chọn và chính ông viết lời nói đầu, thì thơ trong tuyển ấy vẫn sắp xếp theo thứ tự a,b,c tên tác giả. Như thế, những đề xuất Xuân Diệu nêu ra ở bài này, in ra vào năm 1957, có lẽ chỉ là một ý thoáng qua nhằm thỏa mãn cái tư tưởng thời thượng vốn đề cao các từ ngữ "quần chúng", "công nông binh", cốt nói sao cho gây được ấn tượng, chứ không phải ý kiến có giá trị chỉ dẫn thao tác làm sách tuyển thơ thực sự.
− Mùa đông 1919, mùa hè 1957 là bài dịch đồng thời nói về việc dịch thơ Maiakovski; tựu trung là: bài Mùa đông 1919 của nhà thơ Nga được Xuân Diệu dịch vào mùa hè 1957, thế thôi. Nhưng đây là chỗ để Xuân Diệu phê phán Trần Dần, Lê Đạt. Ông lên lớp Trần Dần:
"Nếu Mai-a sống ở đất nước Việt Nam khi hòa bình vừa lập lại, khi khu vực ba trăm ngày quân Pháp chưa rút hết, còn đóng sát nách tại Hải Phòng, tôi quả quyết rằng, giả sử như Mai-a có trong hoàn cảnh chưa tìm được việc cho vợ làm, cũng không bao giờ Mai-a nỡ như Trần Dần, hạ những câu:
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ …
Những câu thơ như vậy học tập Mai-a-kốp-ski ở chỗ nào?"
Và Xuân Diệu nhắc nhở cả Trần Dần, Lê Đạt lẫn số đông người làm thơ:
"Vâng, không nên học tập Mai-a-kốp-ski một cách giáo điều! Mà trước tiên, phải học cái hồn thơ, cái lòng yêu nước, cái lập trường cách mạng không gì lay chuyển nổi của Mai-a-kốp-ski"
Ông nhắc lại lời K. Simonov:
"Truyền thống của Mai-a-kốp-ski không phải là ở chỗ bài thơ Lê-nin hoặc bài thơ Được! [có lẽ định nói đến bài Tốt lắm − LNA chú] viết bằng lối 'leo thang' hay không 'leo thang', mà là ở chỗ Mai-a-kốp-ski đã viết bài thơ về Lê-nin, về Đảng và Tổ quốc!"
− Thế nào là cái mới thực chất là bài trao đổi với quan niệm nghệ thuật của Văn Cao, từng được tác giả này bộc lộ trong bài Một vài ý nghĩ về thơ (Tạp chí Văn nghệ, s. 3, th. 8/1957). Ý tưởng của Văn Cao "chủ động thành lập nên sự thẩm mỹ mới", theo sự phân tích vòng vo của Xuân Diệu, chứa đựng cái "tự huyễn diệu của sự kiêu căng cá nhân"; tình cảm của Văn Cao "Yêu những người biết thất bại mà dám mở đường", được Xuân Diệu khuyên nhủ là đừng mở đường liều, đừng "anh hùng chủ nghĩa rẻ tiền mà ta không dung thứ"! Điều được Xuân Diệu cho in nghiêng để nhấn mạnh là câu khẳng định sẽ mau chóng biến thành công thức như sau:
"Cái mới vô cùng, không văn nghệ cũ nào, không văn nghệ tư sản nào bì nổi, của văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa chúng ta, là đấu tranh cho Đảng kiểu mới, chính quyền kiểu mới, con người kiểu mới, và lao động kiểu mới."
− Những bước đường tư tưởng của tôi là một bản tự kiểm thảo về nhân sinh quan và thẩm mỹ quan của tác giả Thơ thơ, Gửi hương cho gió… Thật ra thì từ năm 1953 ở Việt Bắc kháng chiến, Xuân Diệu đã có một lần dự chỉnh huấn và làm kiểm thảo (xem bài văn xuôi Dứt khoát và bài thơ Trước đây bốn tháng của Xuân Diệu đăng tạp chí Văn nghệ số 41, tháng 7/1953, số về chỉnh huấn) nên, có thể nói, Xuân Diệu đã biết phép ứng xử. Là người đã thành danh trong văn chương tiền chiến, Xuân Diệu có "thi pháp" kiểm thảo riêng, tựu trung là nói cho thật đậm hai ý, một là "chúng tôi" đã ngụp lặn quá sâu vào vũng bùn nghệ thuật tư sản, rất khó sửa chữa, trước ma lực của hào quang cá nhân chủ nghĩa, chúng tôi rất dễ bỏ con đường sáng, "lại tìm những chốn đoạn trường mà đi"; hai là ơn của Đảng đối với chúng tôi là ơn cứu mạng, "càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông", tình cảm chúng tôi với Đảng là "từ phen đá biết tuổi vàng, tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ"! Nhưng cái phía láu cá tự biện hộ của Xuân Diệu thì không qua được con mắt bạn văn đương thời; chẳng hạn, đây là nhận xét ngay trong năm 1958 của Nguyễn Bao: "Thực ra cách mạng đã cứu vớt cái tôi của Xuân Diệu khỏi chết chìm chứ không phải là cái tôi ấy đủ sức mà bơi tới cách mạng. Qua sự trình bày ấy ta thấy Xuân Diệu chưa nhận rõ được mọi cạnh khía tinh vi của cái tôi cũ và ở một điểm nào đấy còn bào chữa cho nó nữa!" (16)
− Cái mới của văn học chúng ta thảo luận với đồng nghiệp quanh câu hỏi: vì sao văn học cách mạng chưa có tác phẩm lớn? Theo Xuân Diệu, lý do là "Các nhà văn thời đại của ta chưa chín, và vì thế, các tác phẩm của ta chưa chín". Lớp nhà văn cũ thì đang tiếp tục tự cải tạo mình để thành nhà văn mới, tức là chưa chín; lớp nhà văn vào nghề cùng với cách mạng thì còn đang cần học tập nhiều về nghề nghiệp, tức là tài năng chưa chín; còn lớp nhà văn sẽ xuất hiện trong chế độ mới thì "họ lại thuộc những giai cấp từ xưa chưa bao giờ được rèn luyện để viết văn", đào tạo họ thành nhà văn sẽ tốn nhiều thời gian hơn.
Một phần đáng kể của bài này, Xuân Diệu giành để thảo luận với ý kiến Nguyễn Tuân trong lời nói đầu tập truyện dịch của Sê-khốp. Xuân Diệu không chỉ nhắc lại cái quan niệm đã hơn một lần ông đem bàn với Nguyễn Tuân: nhà văn cần phải như người bác sĩ, "gọi ra được bệnh và đề ra được cách chữa, ít nhất là hướng chữa", chứ không thể chỉ gọi ra bệnh mà thôi.
"Nhà văn ta có thể đặt vấn đề có tệ quan liêu, chứ không thể đặt vấn đề chính quyền dân chủ nhân dân là một bộ máy quan liêu, có thể hỏi là: Đảng làm thế nào lãnh đạo văn nghệ cho tốt?, chứ không thể hỏi là: Đảng có thể lãnh đạo văn nghệ được không? Nghĩa là nhà văn có thể đặt những vấn đề ra để cho nhân dân càng tăng cường cảnh giác, càng tự nghiêm khắc với những tệ lậu còn lại, càng thấy làm cách mạng không phải là đi ngao du, v.v… chứ không phải là buông thõng ra rất nhiều câu hỏi đặt rất sai để gieo rắc hoang mang vào quần chúng!"
Với những nỗ lực như trên này, có thể thấy vào thời điểm này nhà thơ đang góp phần đặt ra những quan niệm quy phạm nhằm thu hẹp quyền nhận xét và suy nghĩ về đời sống thực tế đương thời của giới văn nghệ sĩ và trí thức nói chung. Có lẽ, qua trường hợp Xuân Diệu, người ta lại thấy rõ, mỗi hạn chế, mỗi trói buộc mà ba chục năm sau mới được thừa nhận, đã định hình theo cung cách như thế nào, và lịch sử của sự đánh mất tự do cũng đồng thời là lịch sử của sự tự nguyện từ bỏ từng phần tự do ra sao.
Xuân Diệu còn giành một phần nữa của bài này để thuyết phục Nguyễn Tuân: không nên xem Sê-khốp như mẫu mực mà phải thấy Sê-khốp chỉ dừng lại ở hiện thực phê bình, không hữu ích bằng Gorki với Người mẹ, tức là Gorki đã đi tới hiện thực xã hội chủ nghĩa, đi xa hơn Sê-khốp! Cố nhiên, đây là điều không chỉ để nói với Nguyễn Tuân mà chủ yếu là điều cần khẳng định như một định đề lớn về nền nghệ thuật mới, lớn lao, đang được xây dựng.
− Một số vấn đề đấu tranh tư tưởng trong thơ là bài báo được công bố khi các hiện tượng Nhân văn, Giai phẩm đã được tuyên bố công nhiên trên công luận như là hoạt động chống Đảng chống chế độ, khi những người tham gia các ấn phẩm đó đã bị tuyên bố là kẻ thù ở bên kia chiến tuyến. Bài này của Xuân Diệu và các bài khác của ông như Những suy nghĩ chung quanh vấn đề chỉnh huấn, Những biến hóa của chủ nghĩa cá nhân tư sản qua thơ Lê Đạt, Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao, − đều thuộc phần đóng góp của Xuân Diệu vào đợt tổng công kích Nhân văn – Giai phẩm, diễn ra trên nhiều tờ báo ở miền Bắc trong quý II/1958.
Bằng vào loạt bài viết này của Xuân Diệu, có thể dự đoán rằng, trong cuộc tổng công kích này, Xuân Diệu được phân công, − hay là ông tự chọn lấy cũng vậy, − mấy mục tiêu chính: khu vực thơ như một chiến trận tư tưởng, với các cứ điểm cần công kích là Lê Đạt, Văn Cao, bên cạnh đó là Nguyễn Tuân với tùy bút Phở và với quan niệm bị coi là sai lầm nghiêm trọng: coi viết văn giống như bác sĩ, chỉ cần gọi ra đúng bệnh, không cần kê đơn bốc thuốc.
Phải sòng phẳng nhận rằng, Xuân Diệu đã tham dự cuộc tấn công này một cách hết sức hăng hái. Ông không phải người phát hiện nhưng là người phác họa lại rõ nét "một luồng thơ chống Đảng, chống chế độ", là người đã đem tất cả uy tín của một nhà "thơ mới" hàng đầu hồi những năm 1940 để kết tội những cây bút vào giữa những năm 1950, theo ông nhận xét, đã "cố nặn ra một chất thơ ác, đập vào giác quan bằng mọi cách, cố giật gân người đọc như Trần Dần, huênh hoang như Lê Đạt, trá hình nhiều cách lập lờ giả trá như Hoàng Cầm".
Xuân Diệu dành cho hai tác giả Lê Đạt và Văn Cao mỗi người một bài viết riêng. Nếu bài về Lê Đạt thiên về chửi bới sỉ nhục, thì bài viết về Văn Cao lại thiên về giọng điệu mỉa mai cay độc. Dưới ngòi bút Xuân Diệu, Lê Đạt chỉ là một nhà thơ cao bồi:
"Một anh cán bộ văn hóa đã bộc lộ rằng khi anh đọc thơ Lê Đạt cho một số thanh niên cao bồi ở Hà Nội thì họ mới nghe thoáng qua, chưa cần hiểu rõ từng câu, họ đã thích ngay. Cái máu cá nhân anh hùng rẻ tiền càn quấy ngổ ngáo của cao bồi đã gặp Lê Đạt là kẻ phát ngôn của họ".
Nhưng trong mắt Xuân Diệu, Văn Cao lại như một "đại ca" nằm vùng, "giả dối như một con mèo, kín nhẹn như một bàn tay âm mưu trong truyện trinh thám", "lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt", "hiểm độc", "một cái giọng cao đạo, ra vẻ bác học, thông thái", "giọng tiên tri", v.v… Tất nhiên, điều chính yếu mà Xuân Diệu phải vạch ra bằng được ở Văn Cao là "cái duy tâm chủ quan, cái cá nhân chủ nghĩa bế tắc, cái tìm tòi lập dị, cái khinh thường quần chúng, một mớ cặn bã tư tưởng cũ rích"! Xuân Diệu cảnh tỉnh Văn Cao mà như có ý đồng thời tự căn dặn mình:
"Nhà văn trước tiên phải ôm lấy tư tưởng đúng, phải ôm lấy quần chúng vạn năng, phải ôm lấy Đảng vĩ đại, chứ nếu chỉ ôm lấy một mớ chữ, theo lối Văn Cao tán thưởng, thì chỉ là ôm lấy tro tàn thuốc lá hay cặn rượu mà thôi. Huống chi mớ chữ đó lại còn phản động, thì nhất định tiêu ma sự nghiệp."
Tất nhiên, con người Xuân Diệu vốn không ham đấu đá, đấu tố, dù khi bị cuốn vào, khi được phân công viết phê phán những người và việc cụ thể, ông không thể không thực hiện, hơn thế, ông còn phải tỏ rõ sự nhất trí với chính thống cả về quan niệm lẫn thái độ, nên đã tỏ rõ nhiệt tình khi đang trong cuộc. Nhưng khi đợt đấu tranh đã chấm dứt, khi Xuân Diệu được bắt tay vào viết về thi hào dân tộc Nguyễn Du, ông đã không dấu nổi cái thở phào ngay ở phần đầu bài viết. Công việc làm thơ và tìm lại các giá trị thơ cổ điển dân tộc của ông, vài năm sau, sẽ thành tựu trong tập thơ Riêng chung, trong tập tiểu luận Ba thi hào dân tộc, v.v…
4c. Điều cần thiết sau cùng của bài này, theo đề tài tôi đã chọn, là cần kiểm điểm lại các xuất bản phẩm của Xuân Diệu trong những năm 1954-58.
Dưới đây là theo nguồn của Thư viện Quốc gia ở Hà Nội.
Các sách in riêng:
- Tiếng thơ, Hà Nội, Nxb. Văn nghệ, in lần thứ hai, 1954, 112 tr. 19cm.
- Ngôi sao, tập thơ 1945-1954, Hà Nội, Nxb. Văn nghệ, 1956, 97 tr. 19cm.
- Ký sự thăm nước Hung, Hà Nội, Nxb. Văn nghệ, 1956, 67 tr. 19cm.
- Mẹ con, thơ ca phát động, Hà Nội: Nxb. Văn nghệ, 1957, 36 tr. 18cm.
- Miền Nam nước Việt và người Việt miền Nam, bút ký, Hà Nội: Nxb. Xây dựng in lần thứ tư, 1957, 30 tr. 19cm. (in lần đầu: 1945)
- Triều lên, tập văn 1945-1957, Hà Nội, Nxb. Hội Nhà Văn, 1957, 161 tr. 19cm.
- Những bước đường tư tưởng của tôi, tiểu luận phê bình văn học, Hà Nội: Nxb. Văn hóa, 1958, 158 tr. 18cm.
Các sách in chung:
- Truyện bảy anh hùng / tập truyện anh hùng của Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu, v.v../ Hà Nội: Nxb Văn nghệ, in lần thứ hai, 1954, 144 tr. 19cm.
- Chúng tôi thăm Liên Xô / tập thơ văn của Nguyễn Tuân, Tú Mỡ, Xuân Diệu, v.v../ Hà Nội: Nxb. Văn nghệ, 1956, 47 tr. 26 cm.
- Nhìn sang bên kia, / tập thơ văn của Xuân Diệu, Lương An, Vĩnh Mai…/, Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn, 1957, 65 tr. 23 cm.
Nhìn vào danh mục trên, ta thấy rõ, trong những năm này, Xuân Diệu vẫn đang là một tác gia văn học sung sức, tuy rằng sự đóng góp cho văn học của ông không còn chủ yếu là ở lĩnh vực sáng tác thơ nữa.
Tháng 8 – tháng 10/2008
LẠI NGUYÊN ÂN
(a) "Năm 1976 [….] tạp chí Tác phẩm mới ngừng phát hành và Nhà xuất bản Tác phẩm mới của Hội Nhà văn Việt Nam ra đời. Cho đến năm 1987, do yêu cầu phát triển của văn học, tạp chí lại xuất bản với tên 'Tác phẩm văn học' khuôn khổ 13x19cm, ra hàng tháng; Tổng biên tập là nhà văn Nguyễn Đình Thi." (sách: Nhà văn việt Nam hiện đại (nhân kỷ niệm 35 năm thành lập Hội nhà văn Việt Nam). Hà Nội: Hội nhà văn Việt Nam xb., 1992, tr. 237.)
(b) Bài đính chính những nội dung trên đã đăng nhật báo "Thể thao & Văn hoá" 19/8/2008
(1) Xem: Sưu tập Văn nghệ 1948-1954, tập 7: 1954, (Hữu Nhuận và Lại Nguyên Ân sưu tầm), Hà Nội, 2006: Nxb. Hội Nhà Văn, tr. 575-577.
(2) Xem trong cuốn: Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ "Việt Bắc" (Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn), Hà Nội: Nxb. VHTT, 2005, tr. 27, 46, 48.
(3) Xem: tin về ĐH 20 ĐCSLX, lời chào mừng ĐH 20 ĐCS LX của Trường Chinh trong tạp chí Học tập, s. 3 (tháng 2/1956); bản dịch toàn văn các văn kiện và một số tham luận chính tại ĐH 20 ĐCS LX trong tạp chí Học tập số 4 (tháng 3/1956), s. 5 (tháng 4/1956) và s. 6 (tháng 5/1956); các văn kiện hội nghị BCHTƯ ĐLĐ VN lần thứ 9 (mở rộng) gồm nghị quyết, lời bế mạc hội nghị của chủ tịch Hồ Chí Minh, báo cáo chính tại hội nghị của Tổng bí thư Trường Chinh: Đại hội lần thứ 20 của Đảng cộng sản Liên Xô, một cuộc Đại hội có ý nghĩa lịch sử trọng đại trên tạp chí Học tập số 6 (tháng 5/1956); các bài trao đổi về vấn đề phương thức lãnh đạo tập thể, chống sùng bái cá nhân trên tạp chí Học tập các số 7 (tháng 6/1956), số 8 (tháng 7/1956), số 1 (tháng 1/1957), v.v…
(4) Sự kiện BCH TƯ ĐCS Liên Xô thông qua nghị quyết về chống sùng bái cá nhân được đăng trên Nhân dân ngày 3/7/1956, tr. 1; bài tóm tắt nội dung nghị quyết này được đăng trên Nhân dân ngày 5/7/1956, tr.3-4.
(5) Xã luận tạp chí Học tập số 8 (tháng 7/1956), tr. 3.
(5) Có lẽ ý Nguyễn Bính muốn nói là tập thơ Ngôi sao đã xuất bản trước khi công bố kết quả giải thưởng văn học của Hội Văn nghệ (đăng Văn nghệ s. 112, ngày 15/3/1956). Nên chú ý là trong thể lệ dự giải văn học, tác phẩm gửi về tham dự giải có thể ở dạng bản thảo chưa in, có thể ở dạng sách đã xuất bản trong thời hạn được quy định.
(6) Xem trên nhật báo Nhân dân ngày 30/10/1956: 1/Thông cáo của Hội nghị lần thứ 10 (mở rộng) của Ban chấp hành trung ương Đảng lao động Việt Nam; 2/Thông cáo của Hội nghị lần thứ 10 BCH TƯ ĐLĐVN về việc cử lại Tổng bí thư BCH TƯ; 3/ Thông cáo của Hội nghị lần thứ 10 BCH TƯ ĐLĐVN về việc thi hành kỷ luật đối với những đồng chí ủy viên trung ương phạm sai lầm trong việc chỉ đạo công tác cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. 4/Tin tối 29/10/1956 hơn 10.000 đại biểu nhân dân thủ đô họp mặt tại Nhà hát nhân dân nghe thông báo về Nghị quyết Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 10, nghe đại tướng Võ Nguyên Giáp nói chuyện về nghị quyết hội nghị lần thứ 10 trung ương Đảng.
- Xem trên Nhân dân ngày 31/10/1956: Bài nói chuyện của đồng chí Võ Nguyên Giáp ủy viên bộ chính trị trung ương Đảng, về nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ 10, tr. 1, 2-3, 4.
- Xem trên Nhân dân ngày 2/11/1956: Thông cáo của Hội đồng chính phủ;
- Xem trên Nhân dân ngày 7/11/1956: Nghị quyết của Hội đồng chính phủ về mấy chính sách cụ thể để sửa chữa sai lầm về CCRĐ và chỉnh đốn tổ chức.
- Xem trên Nhân dân ngày 8/11/1956: Trích Nghị quyết của HĐCP về việc chấp hành chính sách cụ thể đối với phú nông, đối với những người bị vạch là thành phần bóc lột khác và những người có ít ruộng đất phát canh hoặc thuê người làm; Chính sách đối với địa chủ sau cải cách ruộng đất.
(7) Nguyễn Đình Thi: Mấy việc làm để xây dựng nền văn hoá văn nghệ của nhân dân ta (phát biểu trong phiên họp Quốc hội khoá thứ 6 ngày 18/1/1957) // Văn nghệ, s. 158 (1/2/1957), tr. 1, 2. Lưu ý: báo chí đương thời gọi đây là "khoá họp" (QH) thứ 6"; theo cách gọi ngày nay, phải là "kỳ họp thứ 6" mới đúng; vì khi đó QH vẫn đang trong nhiệm kỳ I (nay cũng gọi là khoá I), được bầu cử từ 1946.
(8) Theo các bài tường thuật của Huyền Kiêu (VN. s. 161) và Bàng Sĩ Nguyên (VN. s. 162), có thể tóm tắt tiến trình Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai, họp tại Nhà hát Lớn Hà Nội từ 20/2/1957 đến 28/2/1957 như sau:
Chiều 19/2/1957: Họp trù bị, bầu Chủ tịch đoàn Đại hội, 25 người: Đặng Thai Mai, Hoàng Ngọc Phách, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Tú Mỡ, Hoài Thanh, Nguyễn Xuân Khoát, Lương Xuân Nhị, Phan Thao, Thế Lữ, Nguyễn Phương Danh (Tám Danh), Nông Quốc Chấn, Lưu Quý Kỳ, Nguyễn Cao Luyện, Văn Cao, Ái Liên, Thái Thị Liên, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Văn Tỵ, Y Dơn, Nguyễn Tuân, Nguyễn Nho Tuý (Đội Tảo), Trần Văn Lắm, Lưu Hữu Phước, Trần Huyền Trân
20/2/1957: phiên khai mạc; ngày họp thứ nhất
- Chủ tịch đoàn giới thiệu Đặng Thai Mai chủ toạ phiên họp đầu tiên. Chủ tịch đoàn giới thiệu bổ sung nhạc sĩ quân đội Đỗ Nhuận vào chủ tịch đoàn, đại hội biểu quyết bằng vỗ tay thông qua.
- Tổng thư ký Hội Văn nghệ VN Nguyễn Tuân giới thiệu thành phần đại hội và khách của đại hội: Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông Trường Chinh đại diện Đảng Lao động VN; trên 600 văn nghệ sĩ; các vị khách Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận tổ quốc, Quân đội nhân dân, đảng xã hội, đảng dân chủ, bộ văn hoá, các sứ quán, các phóng viên…
- Tổng thư ký Nguyễn Tuân đọc diễn văn khai mạc.
- Lời chào mừng của Mặt trận tổ quốc, của anh em văn nghệ sĩ đang công tác ở giới tuyến, nhà văn và trí thức Ru-ma-ni.
- Nguyễn Đình Thi thay mặt Ban chấp hành Hội đọc báo cáo chính: Văn học và nghệ thuật Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.
- Chiều: Nguyễn Đình Thi đọc tiếp báo cáo
- Ô. Trường Chinh đọc Thư của BCH TƯ ĐLĐ VN gửi đại hội.
21/2/1957: ngày họp thứ hai
- Lưu Quý Kỳ đọc báo cáo bổ sung về: Phong trào văn nghệ miền Nam trong chín năm qua và nhiệm vụ đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.
- Nông Quốc Chấn đọc báo cáo bổ sung về: Phong trào văn nghệ các dân tộc miền núi.
- Nguyễn Xuân Sanh đọc báo cáo bổ sung về: Dự thảo điều lệ Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
22/2/1957: ngày họp thứ ba
các đại biểu thảo luận theo ngành tại Nhà hát Lớn, CLB Đoàn Kết, CLB Thống Nhất; tối: đoàn bình kịch Cáp-nhĩ-tân (Trung Quốc) biểu diễn chào mừng đại hội với vở Đào hoa nhân diện.
23/2/1957: ngày họp thứ tư
- họp chung tại Nhà hát Lớn nghe các tham luận
- Chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND VN Nguyễn Chí Thanh phát biểu, mời văn nghệ sĩ sáng tác về các đề tài quân đội.
- Đại diện Ban liên lạc nông dân toàn quốc phát biểu hoan nghênh những sáng tác về nông thôn.
- Tham luận: Vũ Ngọc Phan về dân ca VN; Cầm Biêu về thơ dân tộc Thái; Tú Mỡ về trào phúng; Tô Vũ về vốn nhạc cổ; Cù Huy Cận về học tập vốn cũ dân tộc; Đào Duy Anh về vốn cũ dân tộc; Nguyễn Văn Tỵ về phổ biến tranh dân tộc; ngoài ra còn tham luận của Hoàng Châu Ký, Lã Văn Lô, Nhật Lai, Chi Lăng…
24/2/1957: chủ nhật, đại hội nghỉ,
Ban chấp hành hội Văn nghệ VN "mời đồng chí Trường Chinh, người bạn thân mến của văn nghệ sĩ VN" nói chuyện tại Nhà hát Lớn, với đầu đề: "Phấn đấu cho một nền văn nghệ dân tộc dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội" .
25/2/1957: ngày họp thứ năm
- đại diện Tổng Liên đoàn lao động VN Nguyễn Duy Tính, đại diện Hội LH Phụ nữ VN Đinh Thị Cẩn, đại diện Hội LH Thanh niên VN Hồ Trúc phát biểu những ước mong của giới mình với văn nghệ.
- đại hội thảo luận về kinh nghiệm sáng tác và biểu diễn. Phạm Văn Đôn: về kết quả triển lãm hội hoạ VN tại Trung Quốc, Mông Cổ, Triều Tiên; Đào Duy Kỳ: Khai thác vốn dân tộc; Nguyễn Công Hoan: kinh nghiệm viết tiểu thuyết; Nguyên Hồng: ý thức nhà văn; Bàn Tài Đoàn: tôi học làm thơ như thế nào; Hồ Dzếnh: một ý nghĩ về sáng tác; Y Dơn: tôi làm văn nghệ; Đội Tảo: Người diễn tuồng cổ; hoạ sĩ Nguyễn Hiêm: đi vào quần chúng; Nông Quốc Chấn: thơ và đời sống; Thuý Ngần: tâm sự diễn viên…
26/2/1957: ngày họp thứ sáu
- Thứ trưởng bộ văn hoá Đỗ Đức Dục nói về trách nhiệm văn nghệ sĩ với việc nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân; Nguyễn Khánh Toàn (bộ giáo dục) nói về mối quan hệ của ngành giáo dục và văn nghệ sĩ.
- Các tham luận: Nguyễn Xuân Khoát: những khuyết điểm trong phê bình và tự phê bình; Lưu Công Nhân: chống lối phê bình thiếu nâng đỡ đối với hoạ sĩ trẻ; Nguyễn Đình Phúc: sáng tác lâu dài; Phùng Quán: nhận biết "mùi" trăm hoa là khó; Đỗ Nhuận bác lại ý Phùng Quán: "trăm hoa đua nở" không có nghĩa người trồng hoa có thể không có chủ định gì cả…; Xuân Diệu: về bệnh sơ lược trong văn nghệ; Lưu Trọng Lư: về con người mới; Bửu Tiến: tư tưởng tính trong sáng tác; Nguyễn Thành Long: vấn đề phê bình; Lan Sơn: tâm trạng người văn nghệ sĩ tiểu tư sản; Trần Thanh Mại: Đảng, sự thật và văn học.
27/2/1957: ngày họp thứ bảy
- Tham luận và thảo luận về các nhiệm vụ. Phan Thị Nga: văn nghệ với phụ nữ; Phạm Hổ: văn nghệ với thiếu nhi; Trần Hoàn: lực lượng văn nghệ trẻ; Thái Thị Liên và Bích Được: hoàn cảnh khó khăn của diễn viên…
- Buổi chiều, đại biểu các ngành nghệ thuật trẻ: điện ảnh, nhiếp ảnh, múa rối, xiếc…đọc tham luận; Phan Thao: bàn về đâu tranh cho thống nhất nươc nhà.
28/2/1957: ngày họp thứ tám
- điện mừng đại hội của nhà văn Pháp André Still và Pierre Courtade
- Các tiểu ban báo cáo: Hoàng Như Tiếp báo cáo công việc của tiểu ban điều lệ; Đặng Thai Mai: công việc của tiểu ban nghị quyết; Nguyễn Đình Thi: nghị quyết của đại hội; Tú Mỡ (tiểu ban hiệu triệu): thư đại hội gửi các nhà văn nghệ miền Nam, thư đại hội gửi nhà văn trong nước và ngoài nước, thư gửi Trung ương Đảng LĐVN.
- Thông qua nghị quyết của đại hội. Nguyễn Tuân tuyên bố Hội Văn nghệ VN hết nhiệm kỳ. Đại hội bầu cử (bằng bỏ phiếu kín) Ban Chấp hành chính thức của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Chiều, công bố kết quả: có 45 văn nghệ sĩ trúng cử. BCH ra mắt.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đến mừng thành công của đại hội và nói chuyện với văn nghệ sĩ.
- Tố Hữu trong đoàn chủ tịch đại hội đọc diễn văn bế mạc.
Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam
(do đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai bầu ra)
ngành văn: Nguyễn Văn Bổng, Hồ Dzếnh, (bà) Vân Đài, Bảo Định Giang, Nguyễn Công Hoan, Tố Hữu, Đặng Thai Mai, Tú Mỡ, Hoàng Ngọc Phách, Võ Huy Tâm, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, Trần Hữu Thung
ngành mỹ thuật: Trần Văn Cẩn, (bà) Nguyễn Thị Kim, Trần Văn Lắm, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Văn Tỵ, Huỳnh Văn Thuận
ngành kiến trúc: Nguyễn Cao Luyện
ngành nhạc: Văn Cao, Lưu Quang Duyệt, Vũ Tuấn Đức, (bà) Thương Huyền, Nguyễn Xuân Khoát, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước
ngành múa: Hoàng Châu
ngành sân khấu: Nguyễn Phương Danh (Tám Danh), (bà) Ái Liên, Thế Lữ, Tống Văn Ngũ (Năm Ngũ), Nguyễn Thị Lan (bà Cả Tam), Nguyễn Nho Tuý (bác Tảo), Sĩ Tiến
ngành múa rối: Huỳnh Văn Cát
ngành xiếc: Phạm Xuân Thư
ngành điện ảnh: Phạm Văn Khoa, Mai Lộc
ngành nhiếp ảnh: Nguyễn Văn Phú
văn nghệ sĩ dân tộc thiểu số: Cầm Biêu, Nông Quốc Chấn, Y Dơn
(ngoài ra còn 10 ghế dành cho anh chị em văn nghệ hiện ở miền Nam).
Phiên họp đầu tiên của Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, ngày 1/3/1957 tại trụ sở Hội số 51 Trần Hưng Đạo Hà Nội, dưới sự chủ toạ của nguyên Tổng thư ký Hội Văn nghệ VN Nguyễn Tuân, có mặt 39 uỷ viên chấp hành, đã bầu:
- Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật VN: Đặng Thai Mai
- 8 Phó chủ tịch: Nguyễn Tuân, Tú Mỡ, Nguyễn Xuân Khoát, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Cao Luyện, Nông Quốc Chấn, Nguyễn Phương Danh (Tám Danh), Thế Lữ
- Tổng thư ký: Nguyễn Đình Thi
- 3 phó tổng thư ký: Văn Cao, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Văn Bổng
- 13 vị trên đây họp thành Ban Thường vụ của Hội.
(9) "người phá kho bom Tân Sơn Nhất" ở đây ý nói nhân vật thiếu niên họ tên Lê Văn Tám, theo báo chí từ 1946 và nhiều năm về sau, là người đã tẩm xăng vào mình xông vào đốt kho bom ở địa điểm trên; do đây đã có một số truyện ký và kịch viết về đề tài này, trong số đó có kịch "Lửa cháy lên rồi" của Phan Vũ, được giải nhì về kịch trong giải thưởng văn học của Hội Văn nghệ VN 1954-55. Sau này đã xác minh đây không phải là sự kiện và con người có thực, nhưng điều này cũng chưa hề được thông tin chính thức.
(10) Nội dung điều III trong Điều lệ Hội Nhà văn 1957 nói trên là dẫn theo tường thuật của Đào Vũ, Hội nghị thành lập Hội nhà văn Việt Nam, đăng Tạp chí Văn nghệ, số 1, tháng 6/1957, tr. 109-118.
(11) Về các chi tiết liên quan đến Đại hội I Hội nhà văn VN và những người được coi là "hội viên sáng lập", tôi căn cứ vào tường thuật của báo Văn và Tạp chí Văn nghệ đương thời, theo đó số người tham dự đại hội I là 278; còn chuyện tư cách hội viên thì tại đại hội đã được bàn thảo và đi tới nhất trí: chỉ 25 nhà văn được bầu vào ban chấp hành khoá I được coi là "hội viên sáng lập" mà thôi. Sau đại hội, ban chấp hành đã tiến hành xét kết nạp hội viên trong một thời gian dài; một tiểu ban được lập ra để giúp việc này; phiên họp BCH từ 15 đến 18/8/1957 đã xét (bằng bỏ phiếu kín, lấy các trường hợp 50% + 1phiếu) được 127 người, sau đó xét kết nạp thêm 6 trường hợp là nhà văn các dân tộc thiểu số, cộng với 25 nhà văn là uỷ viên chấp hành; như vậy có 158 hội viên dự định được kết nạp. Phiên họp thứ 3 trong tháng 7/1957, Ban thường vụ xét kết nạp thêm 14 tác giả kịch bản cải lương tuồng chèo, đưa tổng số hội viên được kết nạp lần thứ nhất lên con số 172 người ("Văn" s. 22, ngày 4/10/1957, tr. 7). Trong khi đó, một số tài liệu do cơ quan Hội Nhà văn biên soạn sau này (cuốn sách mang tên Nhà văn Việt Nam hiện đại, biên soạn và in 1992; và 2 cuốn cũng mang tên ấy, soạn lại và in vào các năm 1997, 2007) thường nêu thông tin: có 165 đại biểu dự đại hội I và tất cả số người đó đều là "hội viên sáng lập". Điều này không phù hợp với các thông tin từ báo chí đương thời. Chưa rõ con số 165 hội viên đợt I (những người được ghi bằng ký hiệu A từ A 1 đến A 165 trong cuốn sách trên, bản in 1992) có xuất xứ từ đâu?
(12) Bài viết này khi đưa vào cuốn Một số vấn đề đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ hiện nay (Hà Nội: Nxb. Văn hóa, 1957, tr. 55-94) Nguyễn Đình Thi đã xóa bỏ những câu phê bình 2 ký giả tạp chí Học tập (trong đó có câu dẫn trên), đồng thời xóa bỏ những đoạn đồng tình với các nhà văn khác của tuần báo Văn khi họ bênh vực nội dung lành mạnh ở truyện ngắn Bích-xu-ra của Thụy An, − một trong những tác phẩm đăng báo Văn bị ký giả Thế Toàn nêu đích danh để phân tích chỉ trích trên tạp chí Học tập.
(12b) Ví dụ ít ra có 2 lần, những nội dung của tuần báo Văn số Tết Mậu Tuất 1958 (tức số 38+39) được quảng cáo trên báo Quân đội nhân dân (số 416, ngày 24/1/1958, tr. 5, và số 419, ngày 4/2/1958, tr. 4); thế nhưng trên thực tế thì số báo ấy đã không được xuất bản.
(13) Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 19: 1958. Hà Nội: Nxb. Chính trị quốc gia, 2002, tr. 6-7.
(13b) Phiên tòa liên quan đến vụ việc này được gọi là vụ án gián điệp, xử tại Tòa án nhân dân Hà Nội ngày 19/01/1960, tuyên phạt 5 người: Nguyễn Hữu Đang: 15 năm tù giam cộng thêm 5 năm mất quyền công dân; Lưu Thị Yến tức Thụy An: 15 năm tù giam cộng thêm 5 năm mất quyền công dân; Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức: 10 năm tù giam cộng 5 năm mất quyền công dân; Phan Tại: 6 năm tù giam cộng thêm 3 năm mất quyền công dân; Lê Nguyên Chí: 5 năm tù giam cộng 3 năm mất quyền công dân. (Xem tường thuật của báo Nhân dân, 21/01/1960, tr. 1, 6; của báo Thời mới, 21/01/1960, tr. 4; bài của Hồng Chương, tuần báo Văn học, số 80, ngày 5/2/1960, tr. 11, 14). Như vậy, có lẽ Phùng Cung và một số người khác bị xử trong một vụ khác chăng?
(14) Từ nguồn báo chí đương thời, các thông tin xử phạt cụ thể này khá mờ nhạt, rất ít rõ ràng, và hoàn toàn không đầy đủ. Điều đáng kể nữa là thường có sự mâu thuẫn lẫn nhau giữa các nguồn tin. Chẳng hạn, sách "Nhà văn Việt Nam hiện đại" (biên soạn và in năm 1992 đã dẫn trên) không ghi tên Thụy An và Trương Tửu trong danh sách hội viên, nhưng thông báo của Hội nghị BCH HNV khóa I ngày 2&3/7/1958 (đăng báo Văn học số 5, ngày 5/7/1958) lại cho biết Thụy An và Trương Tửu bị khai trừ; – vậy điều hiển nhiên là 2 người ấy đã từng là hội viên Hội nhà văn Việt Nam!
(15) Những trường hợp loại này, xảy ra ở các địa phương khác nhau, là không ít; ví dụ sinh viên Trần Niêm của khoa ngữ văn ĐHTH Hà Nội, nhà báo Tuân Nguyễn (1933-83; xem cuốn Nhớ Tuân Nguyễn, Hà Nội, Nxb. Hội Nhà Văn, 2008); hoặc một trường hợp theo lời kể của nhà thơ Tế Hanh: người thợ đã may complet cho Phan Khôi và Tế Hanh đi Trung Quốc dự lễ kỷ niệm Lỗ Tấn năm 1956, sau này nhân lúc tình cờ gặp lại Tế Hanh đã cho biết ông ta bị đưa đi cải tạo gần 10 năm chỉ với lý do: đã từng may quần áo cho Phan Khôi, một phần tử Nhân văn – Giai phẩm! Tế Hanh đã kể chuyện này nhiều lần với nhiều người, trong số đó có tôi; và tôi được biết, có cả nhà thơ Thanh Thảo (Hồ Thành Công).
(16) Nguyễn Bao: Đọc sách: "Những bước đường tư tưởng của tôi" của Xuân Diệu, Nxb. Văn hóa // Tổ quốc, Hà Nội, s. 106 (1/7/1958), tr. 23.
Lên trang viet-studies ngày 7-11-10
http://viet-studies.info/LaiNguyenAn_XuanDieu.htm
0o0
Tế Hanh,
"người Do Thái lang thang" trên đất Bắc
Thật tình, đối với các nhà thơ tiền chiến theo Cộng Sản, tôi ít khi nhớ tới Tế Hanh. Điều đó dễ hiểu vì hầu hết những nhà thơ nầy đều phản thùng nên nhớ tới họ làm chi?! Khi còn trẻ, càng ngưỡng mộ họ bao nhiêu thì khi lớn lên, đọc những câu thơ như "Thắp đèn cho sáng ba gian, Lôi mi ra giữa đình làng đêm nay," hay bài "Trước đây ba tháng" của Xuân Diệu tôi thấy thất vọng vô cùng. Thơ thẩn mà như thế thì còn nhắc đến họ làm gì!
Bỗng nhiên, mới đây, tôi nghe tin Tế Hanh từ trần.
Có lẽ ông nầy cũng khác chút ít với mấy ông kia!
Khác cái gì?
Trước hết thơ Tế Hanh không "sặc mùi đấu tố" hay "học tập" như thơ Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu. Không rõ Tế Hanh có phải tham gia các lớp học tập như các nhà thơ tiền chiến sau cái gọi là "Luận cương văn hóa nổi tiếng" của Trường Chinh hay không? Thực chất, cái gọi là luận cương đó chỉ là sản phẩm "chôm" của Mao, hay có thể gọi là một bản sao chép của Mao cũng vậy.
Thế rồi các nhà thơ tiền chiến tích cực học tập, làm bài, làm thơ "phản tỉnh" như Xuân Diệu hay làm "thơ đấu tố", tham gia Cải cách Ruộng đất như Lưu Trọng Lư.
May mắn cho Tế Hanh, trong thời gian học tập và đấu tố như thế xảy ở mìền Bắc thì Tế Hanh hoạt động ở Liên Khu 5, tham gia "công tác giáo dục" ở Nam Trung Bộ, và cũng hoạt động văn nghệ ở vùng nầy, nói rõ ra là Nam-Ngãi-Bình-Phú, ít có quan hệ với các lớp học tập và đấu tố Cải cách Ruộng đất ở ngoài kia.
Tập kết năm 1954, ông không liên quan gì tới nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Một phần, ông không phải là một "thiên tài thi ca", thơ ông chẳng có gì xuất sắc. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, ông chẳng có bài thơ nào được người ta khen ngợi. Thứ hai nữa, bản sắc địa phương là niềm tự hào của các nhà gọi là làm thơ, làm văn. Một nhà thơ dù có "thành danh", có chút ít tiếng tăm, nhưng lớ ngớ giữa Hà Thành ngàn năm văn vật, nên ít được ai chú ý, mời gọi tham gia. Nhờ đó, ông thoát nạn tù tội trong các đợt đánh phá "bọn văn nghệ sĩ chống đảng".
Nhìn kỹ vào sự nghiệp thơ của Tế Hanh, người yêu thơ thấy rõ ông là một nhà thơ chân chất, thật thà và tình cảm.
Trước năm 1945, trong khi các nhà thơ mới dần dần đi vào các lĩnh vực thơ siêu thực, tượng trưng, triết học, như Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ cho kịp với trào lưu tư tưởng Tây Phương thì ông vẫn là một nhà thơ bình dị, chân chất, Việt Nam. Thơ ông đi với "Con Đuờng Quê", với "Quê Hương" với nắng sớm, mưa chiều, với hương đồng cỏ nội, với biển và… muối mặn.
Người ta biết thơ ông rất sớm, khi còn học tiểu học. Ở các lớp Ba, lớp Nhì, có lẽ không ít anh chị "học trò thò lò mũi xanh" đứng trước bảng đen, vòng tay cúi đầu trước mặt thầy cô giáo, đọc một lèo những câu như "Làng tôi vốn làm nghề chài lưới, Nước bao vây cách biển một ngày sông" hay "Tôi con đường nhỏ chạy lang thang, Mang nỗi buồn không chạy khắp làng" để hớn hở cầm vở xuống bàn với 10 điềm ngon ơ.
Qua đó, người ta có thể cho rằng thơ Tế Hanh đi vào lòng người sớm lắm, khi người ta còn là trẻ con. Lớn hơn chút nữa, khi những đứa trẻ bắt đầu "dỡ chứng", chưa hẵn đã trốn học như Đinh Hùng "làm học trò nhưng không sách cầm tay" thì cũng bắt gặp Tế Hanh trong hồn mình với "Những chiều nghỉ học tôi hay tới, Đón chuyến tầu đi đến những ga."
Ở cái tuổi niên thiếu ấy, cậu học trò chưa thấy gì xa hơn hai thanh sắt đường xe lửa chạy dài tới phương trời xa tít, hay những toa xe nhỏ nằm im, cô đơn trong cái ga xép phố chợ nhỏ. Và dĩ nhiên, cậu học trò cũng buồn như Tế Hanh vậy" "Lâu lâu cò rúc nghe rền rĩ, Lòng của người đi réo kẻ về."
Những bài thơ Tế Hanh làm khi ông còn trẻ, chưa nhuốm "mầu cách mạng" thì hay lắm. Nó là cái gì rất gần gủi thân quen, cái người ta biết, người ta đã từng qua nhưng chưa quan sát thấy rõ, thì ông thấy rất rõ và nói lên một cách chân tình, tinh tế. Chẳng hạn: Mấy ai thấy "Nỗi buồn không" của con đường làng. Ai cũng nghe "còi rúc nghe rền rĩ". Nghe tiếng còi tầu ở phương nào là biết người mình đưa tiển ở phương ấy nhưng mấy ai nghĩ rằng đó là "Lòng của người đi réo kẻ về." Chữ "réo" nghe hay lắm. Nó như một lời kêu gọi, một tiếng than, thậm chí như một ánh mắt từ phương ấy nhìn về…
Sau nầy, khi đất nước trì trệ, kẻ cầm quyền ù lì, lạc hậu, ngoan cố thì nước Việt Nam giống như chiếc tầu của Tế Hanh: "Tôi thấy tôi thương những chiếc tầu, Ngàn đời không đủ sức đi mau…"
Sau khi tập kết ra bắc năm 1954, lòng nhớ quê hương của ông vẫn sâu đậm, nhưng cái tính chất thơ thời trai trẻ của ông không còn nữa.
Đọc những bài thơ ông làm sau khi ra Bắc, tôi thấy chỉ có một bài tương đối hay mà tự nhiên, tình cảm đậm đà. Đó là:
Bài thơ tình ở Hàng Châu
Anh xa nước nên yêu thêm nước
Anh xa em càng nhớ thêm em
Trăng Tây Hồ vời vợi thâu đêm
Trời Hàng Châu bốn bề êm ái
Anh xa em càng nhớ thêm em
Trăng Tây Hồ vời vợi thâu đêm
Trời Hàng Châu bốn bề êm ái
Mùa thu đã đi qua còn gửi lại
Một ít vàng trong nắng trong cây
Một ít buồn trong gió trong mây
Một ít vui trên môi người thiếu nữ...
Một ít vàng trong nắng trong cây
Một ít buồn trong gió trong mây
Một ít vui trên môi người thiếu nữ...
Anh đã đến những nơi lịch sử
Đường Tô - Đông - Pha làm phú
Đường Bạch - Cư - Dị đề thơ
Hồn người xưa vương vấn tự bao giờ
Đường Tô - Đông - Pha làm phú
Đường Bạch - Cư - Dị đề thơ
Hồn người xưa vương vấn tự bao giờ
Còn thao thức trên cành đào ngọn liễu
Phong cảnh đẹp nhưng lòng anh thấy thiếu
Bức tranh kia anh muốn điểm thêm màu
Có hai ta cùng tựa bên cầu
Phong cảnh đẹp nhưng lòng anh thấy thiếu
Bức tranh kia anh muốn điểm thêm màu
Có hai ta cùng tựa bên cầu
Cho mặt nước Tây - Hồ trong sáng nữa
Lá phong đỏ như mối tình đượm lửa
Hoa cúc vàng như nỗi nhớ dây dưa
Làn nước qua ánh mắt ai đưa
Lá phong đỏ như mối tình đượm lửa
Hoa cúc vàng như nỗi nhớ dây dưa
Làn nước qua ánh mắt ai đưa
Cơn gió đến bàn tay em vẫy
Chúng mình đã yêu nhau từ độ ấy
Có núi sông và có trăng sao
Có giận hờn và có cả chiêm bao
Chúng mình đã yêu nhau từ độ ấy
Có núi sông và có trăng sao
Có giận hờn và có cả chiêm bao
Cay đắng ngọt bùi cuộc đời kháng chiến
Nói sao hết em ơi bao kỉ niệm...
Những ngày buồn nghĩ đến thấy vui vui
Nói sao hết em ơi bao kỉ niệm...
Những ngày buồn nghĩ đến thấy vui vui
Những ngày vui sao lại thấy bùi ngùi
Anh không muốn hỏi nhiều quá khứ
Ngày đẹp nhất là ngày rồi gặp gỡ
Rời Tây Hồ trăng xuống Bắc Cao Phong
Chỉ mình anh với im lặng trong phòng
Ngày đẹp nhất là ngày rồi gặp gỡ
Rời Tây Hồ trăng xuống Bắc Cao Phong
Chỉ mình anh với im lặng trong phòng
Anh ngước nhìn bức thêu trên vách:
Hai bóng người đi một hàng tùng bách
Bàn tay nào đã dệt nỗi lòng anh?
Tiếng mùa xuân đem sóng vỗ bên mình
Hai bóng người đi một hàng tùng bách
Bàn tay nào đã dệt nỗi lòng anh?
Tiếng mùa xuân đem sóng vỗ bên mình
Vơ vẩn tình chăn chập chờn mộng gối
Anh mơ thấy Hàng Châu thành Hà Nội
Nước Tây Hồ bỗng hoá nước Hồ Tây
Hai chúng mình cùng bước dưới hàng cây
1956
Anh mơ thấy Hàng Châu thành Hà Nội
Nước Tây Hồ bỗng hoá nước Hồ Tây
Hai chúng mình cùng bước dưới hàng cây
1956
Độc giả nhớ lấy, bài thơ nầy ông làm năm 1956, dù đã theo kháng chiến 9 năm, cái tính chất lãng mạn trong thơ mới vẫn còn dây dưa nơi ông. Tâm hồn ông chưa hoàn toàn bị nhuộm đỏ.
Suốt mấy chục năm ở ngoài Bắc, ông luôn luôn hướng vê Nam. Ông làm không ít thơ nói về nỗi nhớ miền Nam của ông!
Tại sao vậy?
Tại vì ông nhớ quê hương. Dĩ nhiên.
Nhưng điểm chính là ông không thấy hạnh phúc ở "Thiên đường Cộng sản". Ông không chịu nỗi cảnh sống ở miền Bắc. Không chịu nỗi miền Bắc nên nhớ lắm miền Nam. Nếu ông nhận miền Bắc là "Thiên đường", hay ít ra là "Quê hương thứ hai", thì không bao giờ ông thấy mình là "người Do Thái lang thang" trên quê hương đó.
Thật vậy, xin đọc bài thơ sau đây:
Chuyện Buồn
Một đêm kia, một người Do Thái
Kể lể cùng tôi nỗi nhớ nhà
Thất thểu trọn đời nơi đất khách
Ăn nhờ, sống gửi xứ người ta.
- Tôi nhớ, ông ơi, héo cả hồn!
Đời tôi, tôi chẳng muốn gì hơn
Là về cố quận, mai sau chết
Còn có bên nhà miếng đất chôn.
- Tôi cũng như ông, cũng lạc loài,
Bơ phờ như chiếc lá thu rơi;
Lang thang mang bóng nơi xa ấy
Tôi cũng như ông, cũng nhớ hoài.
Nhưng nỗi sầu ông dễ hiểu hơn,
Chớ tôi không biết cớ sao buồn:
Chưa hề mất mát, nhưng tìm mãi,
Chẳng cách vời ai, vẫn đợi luôn.
Kể lể cùng tôi nỗi nhớ nhà
Thất thểu trọn đời nơi đất khách
Ăn nhờ, sống gửi xứ người ta.
- Tôi nhớ, ông ơi, héo cả hồn!
Đời tôi, tôi chẳng muốn gì hơn
Là về cố quận, mai sau chết
Còn có bên nhà miếng đất chôn.
- Tôi cũng như ông, cũng lạc loài,
Bơ phờ như chiếc lá thu rơi;
Lang thang mang bóng nơi xa ấy
Tôi cũng như ông, cũng nhớ hoài.
Nhưng nỗi sầu ông dễ hiểu hơn,
Chớ tôi không biết cớ sao buồn:
Chưa hề mất mát, nhưng tìm mãi,
Chẳng cách vời ai, vẫn đợi luôn.
Tôi không tán bậy, nhưng tôi không hết suy nghĩ bốn câu thơ cuối. Hình như ông muốn nói một cái gì đó mà không nói được. Nỗi buồn của người Do Thái là nỗi buồn mất nước. Ông khác chứ. Ông nói rõ "chưa hề mất mát", nghĩa là quê hương ông vẫn còn đó. Ông muốn về Nam vì miền Nam "Chẳng cách vời ai" nhưng không về được. Không về được là vì ai? Đọc tới đây, độc giả có thể "tán" thêm, bằng nhiều ý, theo quan điểm của mỗi độc giả.
Dù vậy, cũng có người phản bác. Không! Ông được chính quyền miền Bắc chiếu cố nhiều lắm chứ. Bằng chứng là ông đã được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
Đừng quên chế độ Cộng Sản là chế độ bánh vẽ. Cái gì ăn gian, ăn lận, ăn cắp, tham nhũng là bánh thật. Cái gì có làm lễ, có treo cờ gióng trống, có cờ đảng, có hát quốc tế, quốc gia thì chỉ là bánh vẽ.
Cái bánh vẽ đó, cắt ra, trao cho Xuân Diệu một miếng, Huy Cận một miếng, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm mỗi người một miếng thì cũng nên trao cho Tế Hanh một miếng để an ủi con ngựa già có công "hãn mã".
Tới gần cuối đời, khi Tế Hanh còn sống ngúc ngắc, tặng cho ông tờ giấy nhỏ, cũng là để an ủi, làm yên lòng một "người Do Thái lang thang" trên miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa.
tuệchươnghoànglonghải
phụ lục:
Những Ngày Nghỉ Học
Tặng Nguyễn Văn Bổng
Những ngày nghỉ học tôi hay tới
Đón chuyến tàu đi đến những ga
Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt,
Lòng buồn đau xót nỗi chia xa.
Tôi thấy lòng thương những chiếc tầu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có chi vương víu trong hơi máy.
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau .
Bánh nghiến lăn lăn quá nặng nề!
Khói phì như nghẹn nỗi đau tê;
Lâu lâu còi rúc nghe rền rĩ;
Lòng của người đi réo kẻ về.
Kẻ về không nói bước vương vương...
Thương nhớ lan xa mấy dặm trường,
Lẽo đẽo tôi về theo bước họ
Tâm hồn ngơ ngẩn nhớ muôn phương.
Đón chuyến tàu đi đến những ga
Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt,
Lòng buồn đau xót nỗi chia xa.
Tôi thấy lòng thương những chiếc tầu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có chi vương víu trong hơi máy.
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau .
Bánh nghiến lăn lăn quá nặng nề!
Khói phì như nghẹn nỗi đau tê;
Lâu lâu còi rúc nghe rền rĩ;
Lòng của người đi réo kẻ về.
Kẻ về không nói bước vương vương...
Thương nhớ lan xa mấy dặm trường,
Lẽo đẽo tôi về theo bước họ
Tâm hồn ngơ ngẩn nhớ muôn phương.
Lời con đường quê
Tôi, con đường nhỏ, chạy lang thang
Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng,
Đến cuối thôn kia hơi cỏ vướng,
Hương đồng quyến rũ hát lên vang.
Từ đấy mình tôi cỏ mọc đầy;
Dọc lòng hoa dại ngát hương lây;
Tôi ôm đám lúa, quanh nương sắn,
Bao cái ao rêu nước đục lầy .
Những buổi mai tươi nắng chói xa,
Hồn tôi lóng lánh ánh dương sa,
Những chiều êm ả tôi thư thái
Như kẻ nông dân trở lại nhà.
Tôi đã từng đau với nắng hè:
Thịt da rạn nứt bởi khô se;
Đã từng điêu đứng khi mưa lụt :
Tôi lở, thân tan rã bốn bề.
Tôi sống mê man tránh tẻ buồn,
Miệt mài hể hả, đắm say luôn
Tôi thâu tê tái trong da thịt
Hương đất, hương đồng chẳng ngớt tuôn .
Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng,
Đến cuối thôn kia hơi cỏ vướng,
Hương đồng quyến rũ hát lên vang.
Từ đấy mình tôi cỏ mọc đầy;
Dọc lòng hoa dại ngát hương lây;
Tôi ôm đám lúa, quanh nương sắn,
Bao cái ao rêu nước đục lầy .
Những buổi mai tươi nắng chói xa,
Hồn tôi lóng lánh ánh dương sa,
Những chiều êm ả tôi thư thái
Như kẻ nông dân trở lại nhà.
Tôi đã từng đau với nắng hè:
Thịt da rạn nứt bởi khô se;
Đã từng điêu đứng khi mưa lụt :
Tôi lở, thân tan rã bốn bề.
Tôi sống mê man tránh tẻ buồn,
Miệt mài hể hả, đắm say luôn
Tôi thâu tê tái trong da thịt
Hương đất, hương đồng chẳng ngớt tuôn .
Quê hương
(Chim bay dọc biển đem tin cá*)
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã
Phăng mái chèo vội vã vượt trường giang
Cánh buồm trương, to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió ...
Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe.
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm!
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong chất vỏ.
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cài mùi nồng mặn quá.
____________________________
* Câu thơ của thân phụ tôi (T.H)
(Chim bay dọc biển đem tin cá*)
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã
Phăng mái chèo vội vã vượt trường giang
Cánh buồm trương, to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió ...
Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe.
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm!
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong chất vỏ.
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cài mùi nồng mặn quá.
____________________________
* Câu thơ của thân phụ tôi (T.H)
Tế Hanh tên thật là Trần Tế Hanh, sinh ngày 20 tháng 6 năm 1921, quê làng Đông Yên, xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Thuở nhỏ học trường làng, trường huyện sau ra học tại trường Quốc học Huế. Ông sáng tác thơ từ sớm và đã đứng trong phong trào Thơ mới với tập Nghẹn ngào giành giải khuyến khích của Tự lực văn đoàn. Tham gia Việt Minh từ tháng 8 năm 1945, Tế Hanh đã trải qua các công tác văn hoá, giáo dục ở Huế, Đà nẵng, là Ủy viên giáo dục trong Uỷ ban lâm thời thành phố Đà nẵng sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Năm 1947, ông làm việc trong Ban phụ trách Trường trung học bình dân Trung bộ, năm 1948, ông ở trong Ban phụ trách liên đoàn văn hoá kháng chiến Nam Trung bộ ủy viên thường vụ chi hội Văn nghệ Liên khu V. Năm 1957 khi thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, ông là Ủy viên thường vụ Hội khoá I, II, ủy viên thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam (1963), tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam nhiều khóa, giữ các chức vụ: Trưởng ban đối ngoại (1968), Chủ tịch Hội đồng dịch thuật (1983), Chủ tịch Hội đồng thơ (1986).
Ngoài thơ, Tế Hanh còn dịch nhiều tác phẩm của các nhà thơ lớn trên thế giới, viết tiểu luận phê bình văn học, thơ thiếu nhi.
Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996
Tác phẩm chính
Ngoài thơ, Tế Hanh còn dịch nhiều tác phẩm của các nhà thơ lớn trên thế giới, viết tiểu luận phê bình văn học, thơ thiếu nhi.
Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996
Tác phẩm chính
Nghẹn ngào (1939)
Hoa niên (1944)
(Theo wikipedia)
http://www.vietnamexodus.info/vne0508/vnenews1/bandocviet/tuechuong/trantehanh.htm
__,_._,___
From: Dzung T <dzungthedinh@yahoo.com>
To: "Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com" <Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com>; """"exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com"""" <exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com>
Sent: Thursday, November 10, 2011 7:47 PM
Subject: [Exryu-ww-Forum] Hai nhà thơ cộng sản: XUÂN DIỆU & Tế Hanh (2)
No comments:
Post a Comment