Showing posts with label cafef. Show all posts
Showing posts with label cafef. Show all posts

Friday, May 6, 2011

19/04 5 hiểu lầm tai hại về kỷ nguyên thông tin

Thứ 3, 19/04/2011, 18:01

Trái với suy nghĩ của mọi người, sách in chưa bao giờ chết, thậm chí đang phát triển mạnh. Trong thế giới thông tin, sự phát triển của cái sau không triệt tiêu cái trước.

Sự băn khoăn về bản chất của kỷ nguyên thông tin đã tạo ra nhiều hiểu lầm. Nó là lỗi của một người nhưng là vấn đề của mọi người.

1. Sách đã chết: Sai lầm. Hàng năm, số lượng sách được in ra ngày một nhiều. Các chuyên gia dự báo năm 2011 sẽ đón nhận sự ra đời của khoảng 1 triệu tên sách mới. Ngày 01/10/2010 tại Anh được coi như ngày “Siêu Chủ Nhật” khi 800 cuốn sách mới được công bố. Số liệu từ Mỹ mới chỉ được cập nhật đến năm 2009 và không phân biệt giữa sách mới và sách được ấn bản lại.

Thế nhưng con số 288.355 đủ cho thấy một thị trường sách đang tăng trưởng ấn tượng, tăng trưởng trong năm 2010 và 2011 sẽ còn khả quan hơn. Hơn thế nữa con số trên chưa tính đến số sách được tự ấn bản và in theo yêu cầu.

Ngành công nghiệp sách phát triển bùng nổ tại nhóm nước mới nổi như Trung Quốc hay Braxin. Dù được tính bằng cách nào đi nữa, ngành sách vẫn phát triển chứ không hề đi xuống và chắc chắn không chết.

2. Chúng ta đã bước vào kỷ nguyên thông tin. Lời tuyên bố này được đưa ra cứ như thể thông tin không tồn tại trong các kỷ nguyên khác. Mỗi kỷ nguyên đều là kỷ nguyên thông tin theo cách riêng của nó và tùy thuộc vào phương tiện truyền thông ở thời kỳ đó. Không ai có thể phủ nhận loại hình giao tiếp đang thay đổi nhanh chóng thế nhưng sẽ thật sai lầm nếu cho rằng thay đổi được coi như chưa từng có tiền lệ.

3. Tất cả mọi thông tin đều có sẵn trên mạng. Những ai đều từng làm nghiên cứu đều khẳng định tuyên bố này thực sự ngu ngốc. Chỉ một phần tài liệu lưu trữ được số hóa.

Phần lớn các quy định của tòa án cũng như quy định pháp lý, kể cả ở cấp độ nhà nước hay liên bang, chẳng bao giờ xuất hiện trên mạng Internet. Rất nhiều quy định cũng như báo cáo của các cơ quan công quyền cho đến nay và mãi mãi sẽ vẫn là bí mật đối với nhóm đối tượng mà nó gây ảnh hưởng trực tiếp.

Google ước tính rằng 129.864.880 cuốn sách tồn tại trên thế giới và cho đến nay hãng tuyên bố đã số hóa được khoảng 15 triệu cuốn sách, tương đương khoảng 12%.

Vậy làm sao khoảng cách này có thể được thu hẹp trong khi mỗi năm hàng triệu tác phẩm mới được xuất bản? Và làm sao thông tin từ các nguồn không được in ấn sẽ xuất hiện trên mạng?

Khoảng hơn một nửa các bộ phim được sản xuất trước năm 1940 cho đến nay đã biến mất. Bất chấp nỗ lực lưu trữ hàng triệu tin nhắn bằng công cụ blog, email hay thiết bị cầm tay, phần lớn dòng chảy thông tin hàng ngày đều biến mất.

Chất lượng của các đoạn văn bản được số hóa đi xuống nhanh hơn so với bản in. Ông Brewster Kahle, người tạo ra Internet Archive (lưu trữ tài liệu trên mạng Internet), tính toán rằng vòng đời của một URL được 44 ngày. Phần lớn thông tin không được cung cấp trên mạng và phần lớn thông tin đã từng xuất hiện rồi sẽ biến mất.

4. Đang có quá nhiều thư viện. Ở bất kỳ nơi nào trên nước Mỹ, các nhân viên thư viện cho biết họ chưa bao giờ có nhiều người đến đọc sách đến như vậy. Tại đại học Harvard, phòng đọc luôn đông chật người. 85 chi nhánh của hệ thống New York Public Library lúc nào cũng đông kín.

Các thư viện cung cấp sách, video, và nhiều tài liệu đọc khác. Ngoài ra, thư viện còn mang đến cho người đọc sách nhiều tiện ích: tiếp cận thông tin của doanh nghiệp nhỏ, hỗ trợ làm bài tập về nhà, trò chơi cho trẻ sau giờ học, thông tin việc làm (việc các thông tin đăng tuyển biến mất tại báo in khiến dịch vụ này của thư viện trực tuyến trở nên rất quan trọng với người thất nghiệp.”

5. Tương lai số. Đúng nhưng dễ gây hiểu nhầm. Trong 10, 20 hoặc 50 năm nữa, môi trường thông tin sẽ số hóa mạnh mẽ thế nhưng sự phát triển của phương tiện điện tử không đồng nghĩa với việc thông tin bản in sẽ không còn quan trọng.

Nghiên cứu từ lịch sử cho thấy loại hình giao tiếp mới không nhất thiết triệt tiêu cái cũ, ít nhất trong ngắn hạn. Đài không giết chết báo. Tivi không giết chết đài. Internet không thủ tiêu Tivi. Tỏng mỗi trường hợp, môi trường thông tin trở nên giàu có và phức tạp hơn. Chúng ta đang trải qua giai đoạn chuyển giao quan trọng trong sự tiến hóa số.

5 hiểu lầm trên đã cản trở người ta hiểu được sự chuyển dời trong môi trường thông tin. Nó khiến cho người ta tưởng thay đổi diễn qua quá lớn. Họ nhìn nó trong sự đối nghịch, trước và sau, trắng và đen.

Quan điểm chính xác hơn sẽ bỏ đi lối suy nghĩ thông thường rằng sách bản in và sách điện tử tồn tại đối nghịch và ở 2 thái cực khác nhau trên phương diện công nghệ.

Số liệu công bố cho thấy doanh số bán sách điện tử (bản số hóa dành cho người dùng thiết bị cầm tay) tăng gấp đôi và chiếm 10% doanh số trên thị trường sách thương mại. Năm nay, tỷ lệ tăng trưởng dự kiến đạt từ 15 đến 20%. Thế nhưng doanh số bán sách in tăng với tốc độ tương đương.

Sự quan tâm đến sách điện tử khiến sự ham thích đọc tăng lên và thị trường tăng trưởng nói chung. Máy sách mới, vận hành như những chiếc ATM, đã khiến xu thế trở nên thịnh hành hơn. Một khách hàng bước vào cửa hàng sách và muốn mua bản số hóa. Bản text được tải về máy sách, in ra và chuyển đến người mua chỉ trong 4 phút. Như vậy mô hình bản in cũ sẽ có đời sống mới khi công nghệ điện tử được áp dụng.

Ngọc Diệp
Theo Chronicle

Tuesday, April 19, 2011

19/04 Carl Icahn: Tình thân hữu chấm dứt khi công việc kinh doanh bắt đầu

Thứ 3, 19/04/2011, 16:02


Nhiều CEO tại Mỹ rùng mình khi biết Carl Icahn đang để mắt đến công ty của ông. Ông là hiện thân rõ ràng nhất của sự tàn bạo, tham vọng kiếm tiền bằng mọi giá.

Carl Icahn theo đuổi một thương vụ theo cái cách con chó đuổi theo ô tô. Ông đơn giản không bao giờ biết từ bỏ. Hãy nói chuyện với ông chỉ 3 phút thôi, bạn sẽ hiểu được ông không thể dừng lại nếu ông đã muốn.

Khi ai đó hỏi ông về ý định nghỉ hưu khi đã ở tuổi 75, ông gầm gừ: “Tôi sẽ làm gì? Chơi trò chơi ở nơi nào đó chăng?” Ở tuổi 75, ông không dễ dàng rời khỏi thế giới đầu tư.

Suốt 4 thập kỷ qua, giới doanh nghiệp Mỹ kinh sợ ông. Ông kiếm được rất nhiều tiền cho chính ông và nhà đầu tư của ông. Thế nhưng hiện nay, khi thập kỷ thứ 8 của ông trôi qua được một nửa, ông đã bắt đầu nhìn lại sự nghiệp của mình và tương lai của đế chế Icahn. Họ sẽ nói gì về ông?

Ông sẽ nổi giận nếu bị gọi là kẻ cướp doanh nghiệp tuy nhiên nếu tra Google từ này, chắc chắn bạn sẽ thấy tên của ông. Ông muốn được gọi bằng tên thân thiện hơn: nhà đầu tư tích cực.

Gần đây, một trong những “cánh tay phải” của ông, ông Keith A. Meister, người đóng vai trò chủ chốt trong nhiều thương vụ tỷ USD của quỹ đầu cơ do ông Icahn thành lập, đã rời bỏ Icahn Enterprises.

Sau đó, với 250 triệu USD từ George Soros, ông Meister mở quỹ đầu cơ riêng. Đến tháng 1/2011, ông Rupal Doshi, cựu giám đốc điều hành của Icahn Group, cũng tham gia cùng với ông Meister.

Không lâu sau đó, ông Icahn đột ngột thông báo sẽ đóng cửa quỹ đầu cơ của ông. Quỹ này đã được ông mở ra năm 2004. Sau khi mất quá nhiều tiền trong thời kỷ khủng hoảng tài chính, ông không mấy vui vẻ. Ông trả lại nhà đầu tư toàn bộ tiền. Từ nay, Carl Icahn chỉ quản lý tiền của Carl Icahn.

Trong thư gửi nhà đầu tư ngày 08/03, ông Icahn cho biết ông không mấy vui vẻ sau những gì đã diễn ra trong năm 2008 khi tài sản quỹ ông hao hụt tới 35%.

Ông nói: “Xét đến yếu tố thị trường tăng điểm mạnh trong suốt 2 năm qua và lo lắng ngày một lớn của chúng tôi về triển vọng kinh tế, bất ổn chính trị tại Trung Đông, tôi không muốn tiếp tục chịu trách nhiệm với nhà đầu tư qua thêm một cuộc khủng hoảng thị trường nữa.”

Ông Icahn nói việc quản lý tiền của người khác thực sự đau đầu. Không chỉ có vậy, ông tin rằng thị trường sắp mất điểm: “Bạn sẽ thật ngốc nếu bạn không nghĩ rằng thị trường sẽ điều chỉnh.”

Khi ông Meister ra đi, con trai của Icahn đang chờ đợi trong hậu trường. Icahn “con” năm nay 31 tuổi, anh đã gia nhập đế chế của gia đình sau khi tốt nghiệp đại học Princeton và mất vài năm vô ích làm đạo diễn phim.

Ông Carl Icahn cho biết con trai ông đã sẵn sàng tham gia. Tuy nhiên ông từ chối việc đã chỉ định con trai như nhiều người đã nghi ngờ bởi anh này có khả năng tốt.

Dù ai là người kế vị, người đó cũng sẽ có rất nhiều việc phải làm.

Đế chế Carl Icahn

Ông sinh ra năm 1936 tại New York. Câu chuyện về Carl Icahn bắt đầu từ thập niên 1980. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình không mấy khá giả. Ông đã trang trải học phí đại học của mình từ chơi poker. Bố mẹ của ông muốn ông trở thành bác sỹ, vì thế ông đã theo học trường dược. Một bệnh nhân viêm phổi đã ho vào mặt ông.

Ông nhớ lại khi đó mình đã nói: “Tôi không làm nữa.”

Người chú giàu có Elliot Schnall đã khuyến khích ông tham gia vào phố Wall năm 1960, trái ngược với mong muốn của bố mẹ ông. Mẹ của ông đã cáu giận điên cuồng. Chú của Icahn kể lại: “Bà đã nói phố Wall là nơi dành cho những kẻ đánh bạc.” Bố của Icahn muốn ông mở cửa hàng bán rau.

Năm 1968, Icahn đã chính thức bắt đầu với công ty Icahn & Company và với khoản tiền vay được từ người chú, ông đã mua được một chỗ trên NYSE. Thành công của ông đã khiến bố ông phải thay đổi ý kiến.

Ông hoạt động đặc biệt tích cực trong những năm gần đây. Từ năm 2004, ông đã khởi động 91 chiến dịch nhắm vào 79 doanh nghiệp Mỹ.

Một trong những thương vụ lớn nhất của ông phải kể đến ImClone Systems, một công ty dược là tâm điểm của bê bối giao dịch cổ phiếu Martha Stewart. Ông Icahn đã mua cổ phiếu công ty này vào năm 2006, khởi đầu cuộc chiến trong nội bộ công ty, gây áp lực với ban lãnh đạo công ty bằng lời đề nghị 36USD/cổ phiếu và giành được vị trí chủ tịch.

2 năm sau đó, ImClone chấp nhận lời đề nghị mua lại 70USD/cổ phiếu từ Eli Lilly & Company. Ông Icahn đã bỏ túi 418 triệu USD từ khoản đầu tư 196 triệu USD trước đó.

Sau đó đến lượt tập đoàn năng lượng National Energy Group, bao gồm công ty khí đốt TransTexas Gas và Panaco, ông đã mua khi tập đoàn này gần phá sản. Ông biến khoản đầu tư 300 triệu USD thành 1,5 tỷ USD khi sau đó công ty này được bán cho SandRidge Energy năm 2006.

Ông cũng cực kỳ thành công trong lĩnh vực kinh doanh sòng bạc. Từ năm 2000 đến năm 2006, ông mua 4 sòng bạc với giá 300 triệu USD, sau đó bán lại lấy 1,2 tỷ USD vào tháng 2/2008, ngay trước khi khủng hoảng kinh tế khiến ngành này suy thoái trầm trọng.

Bất kỳ một giám đốc điều hành nào tại Mỹ cũng phải rùng mình khi nghe thấy câu: “Ông Icahn đang chờ máy.”

Tháng 12/2010, CEO của Chesapeake Energy Corporation đã có cảm giác này. Ngay trong cùng tháng, Icahn mua lại 5,8% cổ phần trong công ty.

Ông Aubrey K. McClendon, CEO của Chesapeake Energy Corporation, đã gặp Icahn để chia sẻ lo lắng về việc công ty đang chi tiêu bất hợp lý như thế nào. 2 tháng sau đó, ông McClendon công bố kế hoạch bán 5 tỷ USD tài sản và thực hiện một số thay đổi khác để tăng giá trị cho công ty. Ông Icahn mua lại với giá 21USD/cổ phiếu. Phiên ngày thứ Sáu tuần trước, cổ phiếu công ty đóng cửa ở mức 32,73USD/cổ phiếu.

Ông McClendon từ chối trả lời về việc liệu Icahn có khiến ông thay đổi quan điểm hay không.

Mark Hanson, chuyên gia phân tích tại Morningstar, khẳng định không còn nghi ngờ gì về việc ông Icahn đã tác động đến công ty Chesapeake. Bản kế hoạch kinh doanh mà Chesapeake trình ra vào tháng 2/2011 khác hoàn toàn với cuối năm 2010 khi Icahn chưa nhúng tay vào công việc của công ty này.

Icahn không phải lúc nào cũng thành công. Ông mất 185 triệu USD trong thương vụ đầu tư vào Blockbuster, công ty phá sản vài năm sau khi ông đổ tiền vào đây. Ông còn mất khá nhiều đối với công ty WCI Communities.

Ông Icahn đã tự gây thù chuốc oán với không ít người. Năm 2010, ông mâu thuẫn với Donald Trump về việc mua lại 3 sòng bạc tại thành phố Atlantic, cuộc chiến của tiền và cái tôi. Cuối cùng Icahn thua tại tòa.

Ông Trump cho biết ông hết sức ngạc nhiên về cuộc chiến này bởi ông và Icahn từng là bạn bè. Đã trong nhiều năm ông giúp đỡ Icahn trong giải đấu tennis mở rộng và đưa ra một số lời khuyên cho Icahn khi ông này ly hôn vào thập niên 1990.

Tỷ phú Donald Trump nói: “Carl là một người thường đặt công việc kinh doanh lên trên các mối quan hệ. Tôi là người trung thành và tôi không muốn thấy những người bạn đối đầu với nhau. Thế nhưng với Carl, tình bạn bè thân hữu chấm dứt khi công việc kinh doanh bắt đầu.”

Hiện nay, Carl Icahn có tài sản khoảng 9 tỷ USD và được coi như một trong những nhà đầu cơ vĩ đại nhất thế giới.

Ngọc Diệp
Theo Nytimes, HarvardBusiness

Wednesday, March 2, 2011

27/02 10 thứ 'đốt' tiền của người Mỹ

Chủ nhật, 27/02/2011, 09:39
Khảo sát của 24/7 Wall St. cho thấy người Mỹ chi đến 15% tổng thu nhập của gia đình vào những thứ không cần thiết chỉ để mua vui.

Danh sách vừa được đưa ra dựa trên việc nghiên cứu thay đổi thói quen tiêu dùng trong 20 năm (năm 1989 và 2009). Tất cả những chi phí được coi là cần thiết để duy trì một cuộc sống bình thường đã được loại bỏ. Số liệu được lấy từ Cục thống kê Lao động Mỹ.

10. Các sản phẩm và dịch vụ cho trang phục

Chi phí của một hộ gia đình: 249 USD/năm

Tỷ lệ so với tổng chi tiêu hàng năm: 0,5%

Khoản này bao gồm những việc không cần thiết như thuê và cất giữ quần áo, giặt khô, sửa đồ trang sức, đồng hồ. Sửa chữa quần áo, giày dép thường hiếm khi bị coi là lãng phí, nhưng ở đây chúng lại chiếm một tỷ lệ tương đối. Chi phí trung bình của một hộ gia đình cho khoản này là 249 USD, giảm nhẹ so với năm 1989 (266 USD).

9. Thuốc lá

Chi phí của một hộ gia đình: 380 USD/năm

Tỷ lệ so với tổng chi tiêu hàng năm: 0,8%

Một gia đình bình thường ở Mỹ chi đến hơn 380 USD/năm cho các sản phẩm thuốc lá và những thứ đi kèm như xì gà, tẩu và thuốc lá nhai. Con số trên bao gồm cả những gia đình không tiêu dùng thuốc lá. Tuy nhiên, tỷ lệ thuốc lá chiếm trong ngân sách chi tiêu của một gia đình là 0,8%. Con số trên còn lớn hơn chi phí người Mỹ dùng cho hoa quả và sữa gộp lại. Một người hút một bao thuốc mỗi ngày ở New York sẽ tiêu đến 4.000 USD một năm, chiếm khoảng 10% thu nhập trung bình của người Mỹ trước thuế.

8. Thiết bị và dịch vụ giải trí

Chi phí của một hộ gia đình: 400 USD/năm

Tỷ lệ so với tổng chi tiêu hàng năm: 0,8%

Các sản phẩm trong mục này gồm xe đạp, nhà lưu động, thiết bị cắm trại, đi săn, câu cá, thiết thị thể thao, bơi thuyền, chụp ảnh. Chi phí trung bình cho những thiết bị này là 400 USD. Những gia đình có cha mẹ và một con lớn từ 6 – 17 tuổi tiêu nhiều nhất – 870 USD. Ở những nhà chỉ có cha mẹ đơn thân và ít nhất một đứa con dưới 18 tuổi thì chi phí chỉ là 188 USD. Năm 1989, chi tiêu cho khoản này ít hơn một chút là khoảng 369 USD.

7. Rượu

Chi phí của một hộ gia đình: 435 USD/năm

Tỷ lệ so với tổng chi tiêu hàng năm: .0,9%

Năm 2009, một gia đình bình thường ở Mỹ chi khoảng 435 USD cho bia, rượu và các loại đồ uống mạnh. Con số này lớn hơn số tiền dành cho các loại đồ uống không cồn gộp lại. Mặc dù giá đồ uống ở nhà hàng và quán rượu thường cao hơn, nhưng phần lớn chi phí cho đồ uống có cồn lại là trong gia đình. Một gia đình chỉ gồm hai vợ chồng trung bình tốn khoảng 582 USD, nhiều hơn 400 USD so với gia đình chỉ có cha mẹ đơn thân. Chi tiêu cho rượu đã tăng 35% so với năm 1989. Tuy nhiên, tổng chi phí cho đồ uống thì gần như không thay đổi: 1% năm 1989 và 0,9% năm 2009.


6. Phí vào các nơi công cộng

Chi phí của một hộ gia đình: 628 USD/năm

Tỷ lệ so với tổng chi tiêu hàng năm: 1,3%

Năm 2009, trung bình một gia đình Mỹ tốn 628 USD cho vé vào dự các sự kiện thể thao, xem phim và hòa nhạc. Một gia đình tốn nhiều tiền bạc hơn vào khoản này so với một cá nhân. Người dân ở phía đông bắc nước Mỹ chi đến 780 USD, nhiều hơn 370 USD so với miền nam. Chi phí trung bình hàng năm cho khoản phí này gần gấp đôi so với năm 1989. Tại thời điểm đó, giá một vé xem phim là khoảng 4 USD, chỉ bằng một nửa hiện nay.


5. Phòng trọ, nhà nghỉ mát, khách sạn

Chi phí của một hộ gia đình: 672 USD/năm

Tỷ lệ so với tổng chi tiêu hàng năm: 1,4%

Tại Mỹ, một gia đình bình thường tốn hơn 670 USD cho nhà nghỉ mát và khách sạn. Tuy 20 năm trước, con số này chỉ là 485 USD, nhưng trên thực tế, so với tổng chi phí hàng năm, họ lại tiêu ít hơn: 1,7% năm 1989 và 1,4% năm 2009. Những gia đình có thu nhập hơn 70.000 USD một năm chi nhiều hơn so với một gia đình bình thường – 1.511 USD năm 2009. Những gia đình ở phía đông bắc nước Mỹ dành đến 924 USD cho nhà nghỉ mát và khách sạn, gần gấp đôi so với những nhà ở miền nam.


4. Thú nuôi, đồ chơi và thiết bị cho sân chơi

Chi phí của một hộ gia đình: 690 USD/năm

Tỷ lệ so với tổng chi tiêu hàng năm: 1,4%

Một gia đình bình thường dành đến gần 700 USD cho thú nuôi, đồ chơi và các loại thiết bị cho sân chơi. Gần 80% chi phí cho khoản này là dành cho thú nuôi, bao gồm thức ăn và chăm sóc thú y. Đồ chơi và trò chơi chỉ chiếm 140 USD. Những gia đình có ít nhất một trẻ dưới 6 tuổi chỉ tốn 670 USD. Trong khi đó, những nhà có con lớn hơn 18 tuổi lại chi đến 1.200 USD. Có sự khác biệt trên đa phần là do chênh lệch trong chi phí chăm sóc thú y. Các gia đình ở miền tây nước Mỹ tốn 800 USD cho khoản này, nhiều hơn vùng trung tây đến 20%. So với tổng chi tiêu hàng năm, chi phí đã tăng từ 0,9% năm 1989 lên 1,4% năm 2009.


3. Tivi, đài và thiết bị âm thanh

Chi phí của một hộ gia đình: 975 USD/năm

Tỷ lệ so với tổng chi tiêu hàng năm: 2%

Năm 2009, một gia đình bình thường ở Mỹ tiêu tốn 975 USD cho tivi, đài và thiết bị âm thanh, bao gồm truyền hình cáp, trò chơi điện tử và đầu đĩa. Năm 1989, chi tiêu cho khoản này là 429 USD. Trong khi đó, số tiền dành cho tài liệu đọc chỉ có 109 USD. Nhóm dân cư chi mạnh tay cho khoản này nhất (2,5%) là những nhà kiếm được từ 5.000 USD – 9.999 USD một năm. Trái lại, nhóm gia đình có thu nhập cao nhất lại là nhóm dè sẻn nhất. Những gia đình thu nhập từ 70.000 USD một năm trở lên chỉ tốn 1,7% tổng chi tiêu cho khoản này.


2. Quà tặng

Chi phí của một hộ gia đình: 1.067 USD/năm

Tỷ lệ so với tổng chi tiêu hàng năm: 2,2%

Dẫu người Mỹ tốn nhiều tiền cho những thú tiêu khiển không cần thiết của cá nhân, họ cũng dành không ít tiền bạc để mua quà cho người khác. Năm 2009, chi phí trung bình cho quà cáp (bao gồm vật dụng trong nhà, đồ trang trí và các loại đồ giải trí) của một gia đình là 1.607 USD. Năm 1989, con số trên là 887 USD. Những gia đình có thu nhập ít hơn 5.000 USD một năm tiêu khoảng 479 USD, trong khi những nhà thu nhập từ 5.000 – 9.999 USD lại chi ít nhất – 261 USD.


1. Thức ăn bên ngoài

Chi phí của một hộ gia đình: 2.619 USD/năm

Tỷ lệ so với tổng chi tiêu hàng năm: 5,3%

Các loại thức ăn bên ngoài bao gồm đồ ăn nhanh, đồ ăn mang về, chi phí vận chuyển, nhà hàng, chi phí khi mua hàng ở máy bán đồ ăn tự động và xe bán đồ ăn. Năm 2009, một gia đình bình thường tốn 2.619 USD cho thức ăn bên ngoài, năm 1989 là 1.762 USD. Nhóm gia đình chi nhiều nhất cho khoản này (6,2% tổng chi tiêu) là nhóm kiếm được ít hơn 5.000 USD một năm. Nhóm có thu nhập từ 5.000 – 9.999 USD một năm chỉ tốn 4,7% tổng chi tiêu.


Theo An Lâm

VnExpress

28/02 Người giàu ngày càng thông minh hơn (phần 2)

Thứ 2, 28/02/2011, 14:20
Số người giàu lên nhờ ca hát hay đá bóng là rất nhỏ so với những người giàu và có ảnh hưởng nhờ vào trí tuệ.

Mọi loại tài năng đều được tưởng thưởng

Bất bình đẳng sẽ bớt căng thẳng nếu những người giàu kiếm được từ đúng những gì họ làm ra.

Steve Jobs là tỷ phú bởi mọi người yêu thích các sản phẩm của Apple; kho tiền của J.K.Rowling thì đầy những đồng galleon vàng (1 loại tiền trong Harry Potter) bởi hàng triệu người đã mua bộ truyện Harry Potter.

Nhưng người dân sẽ phẫn nộ hơn nhiều khi mà các ngân hàng được thưởng vì những thất bại của họ hay khi sự giàu có được tạo ra từ việc tìm kiếm đặc lợi chứ không phải từ các công ty.

Ở những quốc gia tham nhũng nhất, các nhà cầm quyền chỉ đơn thuần giúp đỡ bản thân họ bằng tiền công quỹ. Ở những chế độ dân chủ tiến bộ hơn, quyền lực được lạm dụng theo những cách tinh vi hơn nhiều.

Ví dụ tại Nhật Bản, các quan chức về hưu thường nhận được những việc làm hấp dẫn tại những công ty mà họ từng quản lý, một thực trạng được gọi là amakudari (nghĩa là "hạ cánh từ thiên đường").

Hãng tin Kyodo năm ngoái đã cho biết tất cả 43 người đứng đầu trong quá khứ và hiện tại của 6 tổ chức phi lợi nhuận được tài trợ bởi doanh thu xổ số của chính phủ đã bảo đảm việc làm của họ bằng cách này.

Tương tự như vậy tại Hoa Kỳ, các cựu chính trị gia thường nhận được chức vụ giám đốc béo bở khi họ nghỉ hưu. Có thể là do họ rất tài năng.

Nhưng một nghiên cứu bởi Amy Hillman của Đại học bang Arizona đã chỉ ra rằng các công ty Mỹ trong những ngành bị kiểm soát chặt chẽ như là viễn thông, thuốc men hay đánh bạc sẽ thuê nhiều các cựu chính trị gia làm giám đốc hơn những ngành ít bị kiểm soát.

Những người xuất thân khiêm tốn đôi khi lại vươn lên hàng đầu. Barack Obama được nuôi dưỡng bởi một người mẹ độc thân. Lloyd Blankfein, ông chủ của Goldman Sachs, là con của một thư ký. Những người như vậy thường có một điểm chung là có trí tuệ nổi trội.

Mọi loại tài năng đều được tưởng thưởng.

Nhưng số người giàu lên nhờ ca hát hay đá bóng là rất nhỏ so với những người giàu và có ảnh hưởng nhờ vào trí tuệ. Những ngành hấp dẫn nhất như luật, y học, công nghệ và tài chính, tất cả đều đòi hỏi khả năng đầu óc trên mức trung bình.

Một nhà môi giới trái phiếu không cần phải cảm thụ văn chương của Proust nhưng phải có đầu óc tính toán. Một luật sư không cần phải hiểu cuốn "Lịch sử của thời gian" (sách khoa học của Stephen Hawking) nhưng cần phải biết lập luận logic.

Trái Đất sẽ về tay người thông minh

Khi công nghệ phát triển, phần thưởng cho sự thông thái cũng tăng lên. Máy tính đã tăng đáng kể sự sẵn có của thông tin, làm tăng nhu cầu về những người có đủ khả năng để sử dụng nó.

Vào năm 1991 lương trung bình cho một lao động nam người Mỹ với bằng cử nhân cao gấp 2.5 lần so với một người học hết cấp 3; và hiện tỷ lệ này là 3 lần. Khả năng nhận thức được đánh giá cao và do thế họ nhận được thu nhập khác nhau.

Các phụ huynh đã tốt nghiệp đại học cũng có nhiều khả năng nuôi con học hết đại học hơn so với các bậc cha mẹ chưa tốt nghiệp.

Điều này hoàn toàn đúng ở khắp các quốc gia nhưng rõ rệt hơn ở Mỹ và Pháp so với Israel, Phần Lan hay Hàn Quốc, theo OECD. Bản chất (gene), sự nuôi dưỡng và chính trị đều có vai trò riêng.

Trẻ nhỏ có thể thừa hưởng gene về thông minh bẩm sinh. Trí tuệ căn bản đó của chúng sau đó có thể được nuôi dưỡng tốt hơn ở một số gia đình so với các gia đình khác.

Những cha mẹ ham đọc sách thường đọc nhiều hơn cho con của họ, dùng vốn từ vựng rộng hơn khi nói chuyện và thúc con họ làm bài tập ở nhà. Những phụ huynh có giáo dục thường kiếm nhiều tiền hơn, do đó họ có thể cho con họ đi học những trường tư ở gần những trường công tốt.

Ở Hoa Kỳ, sự phân biệt tầng lớp dân cư rất lớn, các trường công tốt nhất có toàn những học sinh phấn đấu vào đại học trong khi những trường dở nhất thì cần máy dò kim loại. Cải tổ trường học cũng đã góp phần thay đổi tinh hình nhưng không thể san bằng sân chơi.

"Sự kết đôi tương hợp" càng làm tăng thêm sự bất bình đẳng. So với thế hệ trước thì hiện những người đàn ông có học vấn cao thường chọn cưới những người phụ nữ có trình độ như họ.

Vào năm 1970 chỉ có 9% số người có bằng cử nhân tại Mỹ là nữ giới, vì thế phần lớn nam giới với những bằng cấp như vậy sẽ cưới những người phụ nữ không có bằng cấp.

Hiện tại thì số nam và nữ có bằng cấp đã xấp xỉ nhau (thực tế nữ giới đang có nhiều bằng cấp hơn) và mọi người có xu hướng chọn bạn đời với mức học vấn tương tự mình.

Nữ giới cũng đã có những bước tiến lớn tại nơi làm việc. Ví dụ như vào năm 1970, chưa đến 5% luật sư Mỹ là nữ. Hiện tại con số này là 34% và gần nửa số sinh viên luật là nữ.

Vì thế mà những cặp vợ chồng có học vấn cao, cả hai vợ chồng cùng kiếm được tiền hiện đang ngày càng phổ biến.

Con cái của những người này có mọi lợi thế, nhưng tiếc là số lượng chúng lại không nhiều. Chỉ số sinh con của những người học hết cấp 3 ở Mỹ là 2.4; với những phụ nữ có bằng cấp cao hơn là 1.6.

Một phụ nữ với mức thu nhập 200,000$/năm có chi phí cơ hội của việc nuôi con cao hơn nhiều so với một phụ nữ chào đón khách hàng tại Wal-mart. Và nuôi dạy những đứa con ưu tú là rất tốn kém. Một cặp vợ chồng luật sư có thể dễ dàng chi trả cho một đứa con của họ vào Yale nhưng 4 đứa thì có lẽ không.

Chi phí của giáo dục đại học cũng góp phần làm sụt giảm tỷ lệ sinh đẻ ở những nước giàu có khác.

Thành viên Đảng Xanh có lẽ sẽ vui mừng với bất kỳ điều gì làm giảm mức tăng trưởng dân số, nhưng các tác động của những xu hướng này đang gây không ít phiền toái.

Nhân khẩu học khiến việc những người có xuất phát điểm thấp kém trèo lên cao trở nên khó khăn hơn. Và điều đó cũng có những hệ quả chính trị của riêng mình.

Minh Tuấn
Theo Economist

27/02 Người giàu ngày càng thông minh hơn (phần 1)

Chủ nhật, 27/02/2011, 09:52
Thật bất công nếu lấy tiền của những người đã lao động chăm chỉ, sáng tạo để cho những người cả đời chỉ biết ngồi lỳ một chỗ.

Một nhân viên ngân hàng nổi tiếng nói rằng khi cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra, những người phụ nữ mà ông biết đã ngừng đeo đồ trang sức. "Đó không chỉ vì họ biết nghĩ về sự phô trương mà còn do đeo chúng chẳng còn là việc hay."

Ông cho biết: "Có những blog có tên tôi, tên gia đình tôi và cả địa chỉ. Còn có cả những lời đe dọa giết người. Bạn có thể cho rằng đó chỉ là đứa trẻ ranh nào đó ngồi trong xó nhà nhưng John Lennon đã gặp một đứa trẻ như thế và anh ta đã bị đứa trẻ đó bắn."

Các vụ phá sản hàng loạt đã gây nên một làn sóng giận dữ trong công chúng đối với các nhà tài chính và toàn bộ những người giàu có nói chung. Bất bình đẳng gia tăng nhanh chóng ở hầu hết các nước giàu có nên tranh luận về chúng cũng vì thế mà trở nên căng thẳng hơn.

Người giàu ngày càng giàu hơn

Ví dụ như tại Hoa Kỳ vào năm 1987 top 1% những người đóng thuế nhiều nhất nhận 12.3% tổng số thu nhập trước thuế. 20 năm sau, con số này đã lên tới 23.5%, gần gấp đôi so với trước. Tỷ lệ này của nửa dưới những người đóng thuế giảm từ 15.6% xuống 12.2%.

Jan Pen, một nhà kinh tế học Hà Lan qua đời năm ngoái, đã đưa ra một cách rất ấn tượng để hình dung về bất bình đẳng.

Giả dụ chiều cao con người tỷ lệ thuận với thu nhập, do đó một người với chiều cao trung bình sẽ có thu nhập trung bình. Bây giờ tưởng tượng rằng toàn bộ dân số trưởng thành của Hoa Kỳ đi qua bạn trong một giờ theo thứ tự thu nhập tăng dần.

Những người đi qua đầu tiên là những chủ doanh nghiệp thua lỗ và họ vô hình bởi đầu họ nằm dưới mặt đất. Sau đó là tới những người thất nghiệp và những lao động nghèo khổ - những người lùn.

Sau nửa tiếng thì đoàn người đi qua vẫn chỉ cao tới eo bạn bởi thu nhập mức giữa của Hoa Kỳ chỉ bằng nửa mức thu nhập trung bình. Phải mất tới gần 45 phút thì những người có kích thước bình thường mới xuất hiện.

Nhưng sau đó ở những phút cuối cùng, những người khổng lồ ầm ầm băng qua. Trong vòng 6 phút toàn những người cao 12 feet (~3.66m). Khi 400 người cao nhất đi qua vào lúc cuối cùng, mỗi người cao đến hơn 2 dặm.

Thước đo bất bình đẳng phổ biến nhất là hệ số Gini. 0 điểm tương ứng với mức bình đẳng tuyệt đối: mọi người có thu nhập như nhau. 1 điểm bằng với việc một người có tất cả mọi thứ.

Chỉ số Gini của Hoa Kỳ đã tăng từ 0.34 (những năm 1980) lên 0.38 (giữa những năm 2000). Chỉ số này của Đức đã tăng từ 0.26 lên 0.3 và Trung Quốc từ 0.28 lên 0.4. Chỉ một nước lớn duy nhất là Brazil có chỉ số này giảm từ 0.59 xuống 0.55.

Đáng ngạc nhiên là trong cùng lúc đó, bất bình đẳng toàn cầu đã giảm từ 0.66 xuống 0.61, theo số liệu của Xavier Sala-i-Martin, một nhà kinh tế học tại Đại học Columbia. Đó là bởi những nước nghèo hơn, như là Trung Quốc, đã tăng trưởng nhanh hơn các nước giàu.

Bất bình đẳng chẳng phải chuyện nhỏ

Bất bình đẳng giàu ảnh hưởng đến đâu? Rất nhiều là câu trả lời của Richard Wilkinson và Kate Pickett, hai tác giả của cuốn "The Spirit Level: Tại sao bình đẳng tốt cho tất cả mọi người".

Cuốn sách của họ đã gây xôn xao tại Anh bằng cách chỉ ra rằng bất bình đẳng có liên quan tới mọi tệ nạn xã hội với những biểu đồ và số liệu phong phú.

Sau khi so sánh các quốc gia và những tiểu bang không bình đẳng ở Mỹ với những nước và tiểu bang bình đẳng hơn, các tác giả kết luận rằng sự bất bình đẳng lớn hơn sẽ dẫn tới nhiều tội phạm hơn, tỉ lệ trẻ sơ sinh tử vong cao hơn, dân cư phát phì hơn, tuổi thọ thấp hơn, nhiều thiếu niên mang thai hơn, phân biệt đối xử với nữ giới nhiều hơn, v.v… Họ thậm chí còn rút ra là những nước bình đẳng hơn sẽ cách tân hơn, thể hiện ở số bằng sáng chế trên đầu người.

Ông Wilkinson và bà Pickett cho rằng những xã hội bình đẳng phát triển tốt hơn bởi loài người tiến hóa trong những nhóm nhỏ săn bắn - hái lượm chia sẻ thức ăn.

Những xã hội hiện đại bất bình đẳng đều rất căng thẳng bởi ý thức cơ bản về bình đẳng của con người bị xâm phạm. Các tác giả kêu gọi tăng cường sở hữu chung tại các công ty và đánh thuế cao hơn vào những người giàu. Các học giả cánh tả rất hoan nghênh ý tưởng này nhưng những người còn lại thì không chắc.

Ông Peter Saunders từ cơ quan nghiên cứu trung hữu Policy Exchange tại London, cho rằng những kết luận dựa trên thống kê trong cuốn sách hầu hết là vớ vẩn. Ông đã chỉ ra một số điểm sai sót.

Đầu tiên là ông Wilkinson và bà Pickett không loại trừ những ngoại lệ từ mẫu của họ.

Do đó, ví dụ khi họ nói rằng các nước bất bình đẳng có tỷ lệ giết người cao hơn những nước bình đẳng, tất cả những gì họ quan sát chỉ là các vụ giết người ở Mỹ xảy ra thường xuyên hơn ở những các nước giàu có khác, có thể là bởi họ được trang bị vũ khí dễ dàng hơn. Đối với phần còn lại của mẫu, không có liên hệ chặt giữa bất bình đẳng và giết người.

Tương tự như vậy, phát hiện của họ về tuổi thọ trung bình lại dựa vào Nhật Bản, đất nước có tuổi thọ cao có lẽ là do chế độ ăn uống hợp lý chứ không phải do phân phối thu nhập đồng đều.

Và những phát hiện về mang thại vị thành niên, vị thế nữ giới và sự cách tân lại dựa vào Scandinavi, một khu vực với nền văn hóa hòa nhã và vừa phải, có thể thấy rất rõ ở những người gốc Scandinavi sống tại Mỹ.

Những nhân tố ngoài sự bất bình đẳng thường tương quan lớn với những vấn đề nêu ra trong cuốn sách.

Ông Saunders nói rằng ví dụ tại các bang của Mỹ, chủng tộc là một yếu tố dự đoán chuẩn xác hơn nhiều cho việc giết người, bỏ tù hay tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong.

Ông cũng phê phán các tác giả vì bỏ qua các nước không phù hợp với giả thuyết của họ và lờ đi những vấn đề xã hội như ly dị và tự sát, hiện đang tồi tệ hơn ở các nước bình đẳng hơn.

Giàu, đơn giản vì họ giỏi

Cuộc tranh luận này có lẽ sẽ không bao giờ được giải quyết. Những vấn đề được thống kê đã đủ rắc rối.

Nếu đo lường bất bình đẳng trong tài sản thay cho thu nhập, trật tự thế giới sẽ thay đổi. Theo cách đo lường này, Thụy Điển sẽ bất bình đẳng hơn so với Anh, bởi rất ít người Thụy Điển có lương hưu tư nhân.

Và nếu đo lường mức tiêu thụ thì thế giới dường như bình đẳng hơn nhiều. Những người nghèo ở các nước giàu thường tiêu nhiều hơn số tiền họ kiếm ra bởi họ được hưởng phúc lợi và sử dụng dịch vụ công cộng.

Những người rất giàu thường chỉ chi một phần nhỏ trong thu nhập của họ. Bill Gates giàu gấp hàng triệu lần một người bình thường nhưng ông ta không ăn hàng triệu bữa trong một ngày.

Các vấn đề về triết lý thậm chí còn phức tạp hơn. Ông Saunders lưu ý rằng dường như là bất công khi những cầu thủ bóng đá, các giám đốc ngân hàng và những nhà tài phiệt kiếm được nhiều hơn những gì họ làm trong khi những người thất nghiệp và những ông bố bà mẹ độc thân phải vật lộn để trả tiền nhà.

Tuy nhiên cũng có vẻ là không công bằng nếu lấy tiền từ những người làm việc vất vả để cho những người lười biếng hay là lấy đi lợi nhuận của những người đã liều lĩnh khoản tiết kiệm cả đời để mang tới một phát minh mới cho thị trường nhằm giúp cho những người mà đã không mạo hiểm gì cả.

Những xã hội khác nhau sẽ chọn các cách khác nhau để xử lý xung đột này.

Rất khó để đánh giá người dân sẽ phản đối bất bình đẳng mạnh tới mức độ nào. Một cuộc thăm dò gần đây của BBC, một đài truyền hình có ngân sách từ tiền đóng thuế, đã phát hiện ra rất nhiều người ở Anh nghĩ rằng các thủ quỹ, trợ lý chăm sóc khách hàng nên được trả lương cao hơn và những giám đốc điều hành cùng với các ngôi sao bóng đá thì ít đi.

Tuy vậy rất ít người Anh bo cho những người thủ quỹ, tẩy chay những hãng có những ông chủ kếch xù hay xem những đội bóng ở giải hạng hai.

Dự án thái độ toàn cầu Pew Global Attitudes Project phỏng vấn nhiều người ở các nước khác nhau xem quan điểm của họ có phải là "hầu hết mọi người đều sống tốt hơn trong một nền kinh tế thị trường tự do, thậm chí một vài người giàu và một vài người nghèo."

Ở Anh, Pháp, Đức, Phần Lan, Mỹ và thậm chí cả Thụy Điển hầu hết mọi người đều đồng ý, nhưng tại Nhật Bản và Mexico phần lớn lại phản đối. Người dân ở những nước mới mở cửa gần đây và hiện đang bùng nổ là đồng tình nhất: 79% người Ấn Độ và 84% người Trung Quốc đồng ý với quan điểm đó.

Minh Tuấn
Theo Economist

Tuesday, February 22, 2011

19/02 Công ty sở hữu mạng xã hội lớn nhất Trung Quốc dự kiến IPO vào tháng 6/2011

Thứ 7, 19/02/2011, 12:41

Renren.com hiện có khoảng hơn 160 triệu người đăng ký tài khoản.

Renren.com, trang mạng xã hội lớn nhất tại Trung Quốc, sẽ chuẩn bị cho đợt IPO tại thị trường Mỹ trong năm 2011. Tổng giá trị cổ phiếu phát hành khoảng 500 triệu USD.

3 ngân hàng chịu trách nhiệm bảo lãnh phát hành bao gồm Morgan Stanley, Deustche Bank AG và Credit Suisse.

Nhiều khả năng đợt IPO sẽ được tiến hành vào tháng 6/2011.

Renren.com hiện có khoảng hơn 160 triệu người đăng ký tài khoản. Công ty sở hữu trang mạng xã hội này có thể sử dụng đợt IPO để thu hut thêm người dùng trong bối cảnh cạnh tranh mạnh mẽ với Tencent Holding và Baidu tại thị trường Internet đông dân nhất thế giới.

Renren, tên gọi có nghĩa “mọi người”, có đặc điểm tương tư như Facebook, trang mạng xã hội với hơn 600 triệu người dùng trên thế giới, nhưng bị cấm tại Trung Quốc.

Tại Renren, doanh thu từ quảng cáo mỗi năm tăng hơn gấp đôi từ khi hãng bắt đầu bán quảng cáo vào năm 2008.

Thông tin trên được cung cấp bởi ông Donna Li, trưởng bộ phận tiếp thị và chiến lược truyền thông tại công ty.

Susquehanna International Group LLP dự báo quy mô thị trường quảng cáo trực tuyến của Trung Quốc sẽ tăng gấp 3 lần lên 13 tỷ USD tại Trung Quốc.

Hiện nay, chưa công ty sở hữu trang mạng xã hội nào của Mỹ tiến hành IPO dù danh tiếng và nguồn thu của các công ty tăng mạnh.

Nhu cầu của nhà đầu tư đối với cổ phiếu công nghệ lân cao. LinkedIn nhiều khả năng sẽ trở thành công ty công nghệ đầu tiên tiến hành IPO, tổng giá trị cổ phiếu phát hành dự kiến 175 triệu USD.


Vũ Tuấn
Theo Bloomberg

Tuesday, February 8, 2011

08/02 Nhìn lại 7 năm hình thành và phát triển của Facebook (Phần 1)

Thứ 3, 08/02/2011, 12:24

04/02/2011, Facebook chính thức tròn 7 tuổi. Hiện Facebook có tới hơn 600 triệu người dùng trên khắp thế giới. Cứ 10 người Mỹ thì có 4 người có tài khoản Facebook.

Facebook – “Đế chế” quảng cáo mới?
Goldman Sachs và nhà đầu tư Nga rót nửa tỷ USD vào Facebook
Facebook có giá 82 tỷ USD?


Mốc thời gian quan trọng


04/02/2004, tiền thân của Facebook, Facemash được thành lập. Thực tế, MarkZuckerberg đã viết Facebook từ 28/10/2003 khi đang học năm thứ 2 đại học Harvard.


Đây là một phiên bản của Hot or Not của đại học Harvard. MarkZuckerberg thành lập thefacebook đặt trên domain thefacebook.com.


1 tuần sau khi thành lập, 3 sinh viên Harvard khác cáo buộc Mark ăn cắp ý tưởng của họ. Việc cáo buộc bùng nổ thành một vụ kiện um xùm, kéo dài trong mấy năm liền. Năm 2008, hai bên thỏa thuận dàn xếp ngoài tòa án, 3 sinh viên Harvard nhận một khoản tiền đền bù 65 triệu USD mặc dù Mark khẳng định anh không ăn cắp ý tưởng của ai cả.


Hiện tồn tại một số nghi vấn về việc Mark được thuê để phát triển sản phẩm tuy nhiên sau đó đã trì hoãn sự phát triển của đối thủ bằng cách từ chối hợp tác làm việc, trong lúc đó phát triển sản phẩm của riêng mình.


Mạng xã hội này ban đầu chỉ dành cho thành viên thuộc đại học Harvard. Chỉ sau hơn 1 tháng, 50% sinh viên Harvard sử dụng dịch vụ.


Từ thành công đối với sinh viên Harvard, MarkZuckerberg cùng với 3 người bạn Eduardo Saverin, Dustin Moskivitz và Andrew McCollum đã đẩy mạnh quảng bá trang web đến nhiều trường đại học tại Mỹ và Canada.


Tháng 9/2004, trụ sở của Facebook chuyển về Palo, Alto, California, thefacebook.com chuyển thành facebook.com. Facebook nhận khoản tiền đầu tư đầu tiên từ người đồng sáng lập PayPal.


Tháng 12/2004, 10 tháng sau khi thành lập, 5,5 triệu người đã dùng Facebook.


Phạm vi của Facebook không còn giới hạn trong các trường đại học mà mở rộng ra cả nhóm trường trung học, nhân viên của Apple, Microsoft cũng như bất kỳ ai có địa chỉ email hợp pháp.


Tháng 10/2005, Facebook đẩy mạnh các tính năng phục cho người dùng, cụ thể thêm tính năng chia sẻ hình ảnh.


Tháng 6/2005, phiên bản Facebook Mobile được đưa vào hoạt động.


Tháng 10/2007, số lượng người sử dụng Facebook vượt con số 50 triệu. Facebook không ngừng cải tiến tính năng, tùy chỉnh tính năng riêng tư cho người sử dụng.


Microsoft mua lại 1,6% cổ phần của Facebook với giá 240 triệu USD, như vậy Facebook được định giá khoảng 15 tỷ USD. Microsoft được quyền đặt quảng cáo quốc tế trên Facebook.


Tháng 4/2008, Facebook hoạt động với 21 ngôn ngữ khác nhau. Số thành viên vượt 100 triệu.


Tháng 10/2008, Facebook ký hợp đồng quảng cáo với Microsoft; Facebook Ads được đưa vào hoạt động.


Tháng 10/2008, Facebook thông báo thành lập trụ sở quốc tế tại Dublin – Ireland, nơi thuế doanh nghiệp thuộc loại thấp nhất ở châu Âu.


Tháng 9/2009, Facebook công bố có lãi lần đầu tiên.


Tháng 4 và tháng 10/2009, số lượng người dùng lần lượt vượt 300 và 400 triệu người.


Tháng 10/2010, số lượng người dùng chạm mức 500 triệu người.


Tháng 11/2010, theo số liệu từ Second Market, Facebook có giá trị 41 tỷ USD và trở thành công ty web lớn thứ 3 tại Mỹ sai Facebook và Amazon.


Tháng 1/2011, hơn 600 triệu người trên thế giới có tài khoản Facebook


Ai đang dùng Facebook?


Facebook thành công nhờ vào các dịch vụ trực tuyến. Người dùng dành nhiều thời gian cho Facebook bởi kho trò chơi đồ sộ, giao diện đơn giản, ổn định, độ bảo mật cao. Hiện khoảng hơn 500 nghìn ứng dụng đang hoạt động trên Facebook.


10 quốc gia có lượng người sử dụng Facebook nhiều nhất thế giới là Mỹ, Anh, Indonesia, Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Ý, Canada, Philipin, Tây Ban Nha và Mexico.


Nghiên cứu của website Compete.com xếp hạng Facebook là trang mạng xã hội được sử dụng nhiều nhất thế giới tính theo số lượng người dùng thực tế. Tạp chí Entertainment Weekly đưa Facebook vào những danh sách những điều tuyệt vời nhất của thập kỷ.


Còn theo Social Media Today, khoảng 41,6% người Mỹ có tài khoản Facebook.


Tăng trưởng số lượng người dùng của Facebook tại Việt Nam thuộc top dẫn đầu thế giới.


Số lượng người sử dụng Facebook tăng đều đặn trong năm 2009. Trong tuần kết thúc vào ngày 13/10/2010, số lượng người truy cập Facebook còn nhiều hơn cả Google.


Facebook cũng được coi như mạng xã hội hàng đầu tại 8 thị trường châu Á bao gồm Philippin, Úc, Indonexia, Malaysia, Singapore, New Zealand, Hồng Kông và Việt Nam. Tại thị trường châu Á khác như Ấn Độ, Nhật hay Hàn Quốc, mạng xã hội Ourkut, Mixi và CyWorld được ưa chuộng.


Nguồn thu của Facebook


Phần lớn doanh thu của Facebook đến từ quảng cáo. Microsoft là đối tác quảng cáo độc quyền của Facebook về quảng cáo trên banner.


Theo công ty nghiên cứu về tiếp thị trên mạng Internet comScore, Facebook thu nhập thông tin về người dùng không kém Google hay Microsoft, thế nhưng ít hơn so với Yahoo.


Năm 2010, nhóm an ninh của Facebook bắt đầu đẩy mạnh các nỗ lực giảm rủi ro liên quan đến sự riêng tư của người dùng. Trước đó vào năm 2007, Facebook đưa ra Facebook Beacon, công cụ thông báo cho mọi người biết những gì mà bạn bè họ đang mua trên mạng.


Nhìn chung, tỷ lệ click vào quảng cáo (CTR) của Facebook thấp hơn so với phần lớn các website lớn. Đối với quảng cáo trên banner, số lượt click vào banner quảng cáo chỉ bằng 1/5 so với trang web. Như vậy người dùng Facebook click vào quảng cáo ít hơn so với nhiều website lớn khác.


Ví dụ, người dùng Google click vào quảng cáo ở mức trung bình khoảng 8% tương đương 80 nghìn click/1 triệu kết quả tìm kiếm. Tỷ lệ này ở Facebook chỉ đạt 0,04% (400 click/1 triệu trang xem).


Phần 2: Facebook đã thay đổi thế giới như thế nào?


Ngọc Diệp