Nếu bây giờ mà bạn trai tôi nói tôi là đàn bà ngốc, tôi sẽ mỉm cười chấp nhận vui vẻ. Ừ, thì em ngốc, nhưng mà sao nào? |
TRANG ĐIỂM: NHẬT BÌNH
TRANG PHỤC: GIA PHẠM
Nếu bây giờ mà bạn trai tôi nói tôi là đàn bà ngốc, tôi sẽ mỉm cười chấp nhận vui vẻ. Ừ, thì em ngốc, nhưng mà sao nào? |
21-04-2011 | ||||||||
| ||||||||
“Thưa Giáo sư Liên, Đính kèm theo đây là bản dịch tập thơ Hồ Xuân Hương của tôi có nhan đề là Hương mùa xuân: Thơ Hồ Xuân Hương (NXB Copper Canyon, 2000). Vào tháng chạp năm 2000, tôi cũng đã gửi đến GS một bản sao của tập thơ này, nhưng tôi không dám chắc rằng, GS đã nhận được. Dầu vậy, ông Trần Văn Dĩnh bảo tôi nên gửi cho GS một bản khác. Tôi cũng đang gửi một bản sao quyển trọn bộ tiểu sử Hồ Chí Minh của tác giả William Duiker bằng thư riêng cho GS. Trong thư gửi GS lần trước, tôi đã đề cập đến Quỹ Bảo tồn di sản chữ Nôm Việt Nam, do nhà ngôn ngữ học Ngô Thanh Nhàn, Kỹ sư máy tính Đỗ Bá Phước, và tôi khởi xướng sau khi vẫn tiếp tục hoàn chỉnh tập thơ Hương mùa xuân. Hiện chúng tôi cũng đang tiến hành in ấn một quyển từ điển đầu tiên về chữ Nôm - Quốc ngữ. Cả anh Nhàn và anh Phước sẽ có mặt tại Thành phố Hồ Chí Minh vào khoảng độ ngày 10 tháng 4, và tôi đã đề nghị họ nên đến gặp GS nếu thấy thuận tiện. Họ sẽ gặp TS Ngô Trung Việt, cộng sự tại Việt Nam của Quỹ chúng tôi, Tiến sĩ sẽ liên lạc với GS để sắp xếp cuộc hẹn. Còn một vấn đề khác nữa, Virginia Jing-yi Shih là một trong những người chúng tôi đã tài trợ để nghiên cứu chữ Nôm ở Việt Nam, thông thạo cả Việt ngữ lẫn tiếng Trung, và cũng là người biết khá rõ về chữ Nôm. Cô Virginia là quản thủ thư viện nghiên cứu về Đông Nam Á của Đại học California - Berkeley. Cô ấy cũng đang quan tâm đến việc nghiên cứu và chuyển ngữ bộ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. GS có nghĩ rằng, GS có thể giúp cô ấy về chữ Nôm trong công trình nghiên cứu đặc biệt này không? Trước đây, cô ấy cũng đã từng chuyển ngữ tập thơ của Nguyễn Trãi sang tiếng Trung Quốc. Nay, cô ấy muốn tiếp tục công trình nghiên cứu đó vào mùa hè này; và Quỹ của chúng tôi sẵn lòng bảo trợ các chi phí cho việc nghiên cứu của cô ấy. Nếu GS quan tâm đến việc này, xin vui lòng cho tôi biết qua địa chỉ điện thư: tbalaban@earthlink.net. Ngoài ra, chúng tôi cũng có một website mới mà có thể GS sẽ quan tâm: www.nomfoundation.org. Qua thư này, xin kính chúc GS gặp nhiều tốt lành trong năm mới và hy vọng GS sẽ có một cuộc gặp thú vị với các giám đốc đồng nghiệp của tôi. Trân trọng.
Sau này, tôi đã gặp TS Ngô Trung Việt và TS Ngô Thành Nhàn, lúc đó là Phó chủ tịch Quỹ bảo tồn di sản chữ Nôm của GS J. Balaban. TS Nhàn đã hướng dẫn tôi đi thăm các Đại học Yale, Southern Connecticut, thăm New York nhân có cuộc Hội thảo châu Á ở Boston 2007, một chuyến viếng thăm để lại những ấn tượng tuyệt vời. TS Nhàn cũng vui lòng tham gia vào Hội Đồng Khoa Học của Trung tâm Nghiên cứu Quốc Học và vẫn giữ liên lạc thường xuyên với chúng tôi. Còn về Virginia Jing-yi Shih ở Đại học Berkeley (Mỹ) thì tôi cũng đã vui lòng giúp chị ấy qua những câu hỏi mà chị ấy đặt ra trong việc làm luận án về Nguyễn Trãi. Chị đã gửi tặng tôi bản luận án sau khi đã bảo vệ thành công, và chúng tôi cũng đã gặp nhau ở Hội thảo Boston. Rất tiếc là cho đến nay, tôi vẫn chưa được gặp GS J. Balaban. Nghe ông có qua Hà Nội nhưng không vào Thành phố Hồ Chí Minh, và vì bận rộn công việc, nên sau bức thư đó, tôi cũng có lỗi là đã không giữ liên lạc trực tiếp thường xuyên. Đọc bản dịch Hồ Xuân Hương của GS, tôi có trao đổi vài ý kiến khi gặp TS Ngô Thanh Nhàn. Tôi rất vui mừng là tập thơ dịch đã có tiếng vang lớn ở Hoa Kỳ: bán được 20.000 cuốn và khi Tổng thống Mỹ Clinton đến Việt Nam, trong diễn văn của ông, ông đã nhắc đến bản dịch này: “Các bài thơ 200 năm tuổi của nữ sĩ Hồ Xuân Hương được xuất bản ở Mỹ bằng tiếng Anh, tiếng Việt và cả nguyên bản chữ Nôm, đây là lần đầu tiên mà một bản thảo cổ của Việt Nam được đưa lên in ấn” (diễn văn của Tổng thống Clinton tại cuộc chiêu đãi của Chủ tịch nước Việt Nam tối 17/11/2000). Chúng tôi xin chân thành chúc mừng thành công đó của GS J. Balaban. Sau đây, để cho những lần in lại sau này ở Mỹ (và từ Mỹ nó sẽ đi đến khắp thế giới, trước hết là đến với những người bạn của Việt Nam và những nhà nghiên cứu Việt Nam), bản dịch sẽ được hoàn thiện hơn, tôi xin góp một số ý kiến. Trước hết, trong Dẫn nhập (Introduction). GS có nói rõ: “Tháng Hai năm 1999, tôi có đến Hà Nội để tham khảo với các học giả nhằm tìm và xác minh bản gốc bằng tiếng Nôm của những bài thơ trong tập sách này… …Quyển sách này, tuyển tập khá tầm cỡ đầu tiên của thơ Hồ Xuân Hương bằng tiếng Anh, hầu như chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót về xuất xứ cũng như sai lạc thuần túy do việc làm của tôi, một người ngoại quốc, dù là thi sĩ, đang bơi trong dòng nước ngập lút đầu mặc dù được khích lệ bởi sự cổ vũ của người Việt Nam đứng ở trên bờ xa tít” (Spring essence, tr.14)
Như vậy là GS - Nhà thơ J. Balaban đã làm việc rất cẩn trọng, như một nhà văn bản học chuyên nghiệp khi tiếp cận văn bản thơ Hồ Xuân Hương, đã thế ông còn sang cả Việt Nam để tham khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu. Nhưng mặc dù như vậy, không thể hiểu được vì sao trong văn bản Nôm in kèm theo và trong bản dịch, lại có những sai lầm sơ đẳng về phiên âm, và do đó đã làm lệch nghĩa câu thơ một cách hết sức đáng tiếc. Trong bài Vịnh nữ vô âm (tr.38) có câu: Điển nương dâu 娘妯 mà trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết là “trên Bộc trong dâu”: “Ra tuồng trên Bộc trong dâu/ Thì con người ấy ai cầu mà chi”, xuất tự thành ngữ “tang gian Bộc thượng”. Sách Hậu Hán thư Địa lý chí nói rằng, đất nước Vệ có chỗ kín trong tang gian (bãi trồng dâu) ở Bộc thượng (trên sông Bộc) là nơi trai gái tụ hội, do đó sau người ta dùng mấy chữ “Tang gian Bộc thượng” để chỉ thói dâm ô. Nguyễn Du dịch là trên Bộc trong dâu, bốn từ ấy đã thành thành ngữ” (Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, H., Nxb Văn Hóa Thông Tin, 2000, tr.577). Thế nhưng trong bản phiên âm này thì lại ghi là nàng dâu: “Trăm năm còn khỏi tiếng nàng dâu”; và dịch là: “Since her whole life she’ll never have to hear “daughter – in – law” (Bởi suốt đời này sẽ không bao giờ phải nghe tiếng “nàng dâu” – “daughter – in – law” trong tiếng Anh nghĩa là nàng dâu”. Như vậy, vì phiên âm nhầm nương dâu thành nàng dâu mà câu thơ mất nghĩa. - Bài Phận đàn bà (tr.72), có câu:
Tất tả 必左 chứ không phải là tất cả 必奇 như trong bản Nôm và bản phiên âm. Tất tả ở câu trên đối xứng với vội vàng ở câu dưới. Nhưng hai câu dịch ra tiếng Anh thì không theo cái sai của phiên âm:
- Bài Khóc ông Tổng Cóc: Nòng nọc nên phiên là đứt đuôi, 坦 đứt (loại chữ giả tá) x. Từ điển chữ Nôm, Nguyễn Quang Hồng chủ biên, tr.383, H., 2006), chứ phiên đất đuôi thì không có nghĩa gì. (bản tiếng Anh dịch đúng làthe tadpole’s los his tail. Con nòng nọc đã mất đuôi). - Bài Bánh trôi nên phiên: Bảy nổi ba chìm với nước non chứ không phiênmấy - 買 - có thể phiên là mấy (nghĩa là vài, bao nhiêu; còn phiên là với (mới):“Một ao niễng niễng với đòng đong” (Nguyễn Trãi) x. Từ điển chữ Nôm, Sđd, tr.679). - Bài Chơi hoa (tr.62) phiên: Đã trót chơi hoa phải 固 có trèo. Nên phiên đúng là cố. Bài Vịnh chùa Quán Sứ, phiên:
nên đổi:
Theo phép đối, không không thể đối lại là không. - Bài Người bồ nhìn (tr.98): Xét xoi trước mặt đôi vầng ngọc Phải phiên là xét soi . Trong một bản dịch, một vài sai sót về nghĩa đen như những vết sướt da rất dễ chữa, không làm hại bản dịch rất tài hoa. Tuy vậy, cần phải nhắc để khi tái bản có thể chỉnh lại cho toàn bích. Tôi nhắc lại là GS J. Balaban đã làm việc hết sức cẩn trọng, cẩn trọng đến mức tối đa, nhưng những người giúp đỡ ông có lẽ đã không có dịp soát lại bản phiên âm chăng? * Tuy đã rà soát các văn bản cổ nhất chép thơ Hồ Xuân Hương rất kỹ càng (trong đó có bản L'œuvre de la poétesse Vietnamienne Hồ Xuân Hương của Maurice Durand), việc chọn tuyển dịch thơ ở đây cũng không thể nói là đã mười phần tốt đẹp. Có những bài thơ mà xét về mặt phong cách, mặt từ ngữ (dùng nhiều từ Hán Việt đài các, trang trọng, mờ nhòe khác với cách dùng từ Nôm thuần Việt, dân dã, cụ thể thường thấy của thơ Hồ Xuân Hương). Đó là hai “mỹ học” khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Những bài như Cảnh thu: “Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa/ Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ/ Xanh om cổ thụ tròn xoe tán/ Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ…”; bài Đài khán xuân: “Ba hồi triêu mộ chuông gầm sóng/ Một vũng tang thương nước lộn trời”; bài Tức cảnh: “Còi mục thét lừng miền khoáng dã/ Lưới ngư giang gió bãi bình sa”, lâu nay nhiều học giả xếp vào thơ Bà Huyện Thanh Quan. Bài Vịnh khách đáo gia, 4 câu đầu rất tầm thường, non nớt: “Nhện sa cá nhảy mấy hôm qua/ Uẩy uẩy hôm nay bác đến nhà/ Điếu thuốc quyến đàm mừng bác vậy/ Miếng trầu đỏ tuổi gọi chi là”, lại lọt vào các câu thơ lấy của Nguyễn Khuyến: “Ao sâu nước cả khôn tìm (chài) cá/ Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà”. Ngoài ra, còn khá nhiều bài non kém khác hoặc bị gán lầm cho Hồ Xuân Hương như: Vịnh dạy con trẻ, Vịnh lão nhàn cư, Vịnh đấu kỳ, Vịnh miêu (được gán cho Hồ Xuân Hương), Vịnh bồ nhìn (chính ra là của Lê Thánh Tông). Còn những bài ai cũng cho là của Hồ Xuân Hương như Thiếu nữ ngủ ngày, Cái quạt (II) (Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa), Trống thủng, Đá ông chồng… lại không được chọn dịch. *** “Tôi đã gõ mãi vào những bản dịch này đến hơn 10 năm, thường bỏ dở nửa chừng, nhưng luôn quay trở lại. Sự kiên trì của tôi được giữ vững bởi sự ngưỡng mộ và kính sợ (tài năng Hồ Xuân Hương) mà tôi hy vọng độc giả cũng thể nghiệm như tôi: đối với cuộc đời thông minh mà cô đơn của Hồ Xuân Hương, đối với tài thơ tuyệt diệu, tính ngoan cường, tài châm biếm, lòng can đảm, sự hóm hỉnh khinh mạn và lòng trắc ẩn, lòng từ bi như một bồ tát của bà. Bà là một nhà thơ của thế giới, người có khả năng làm cho ta phải xúc động như đã từng làm xúc động người Việt Nam hai trăm năm nay” (Dẫn nhập, tr.14). Nhiệt tình đó, tâm huyết đó, sự uyên bác đó cộng với sự thăng hoa của một tâm hồn thơ, đã làm cho GS J. Balaban có một bản dịch sáng tạo, chuyển tải tinh tế tứ thơ, từ ngữ… của nguyên tác (dĩ nhiên không bao giờ có ai, có bản dịch nào, dù là Nga, Pháp... lại có thể chuyển được cái nghĩa ngầm, nghĩa “một mà hai”, tục mà thanh, những cách nói lái (đá đeo, lộn lèo…, những tử vận…, và ta cũng không thể đòi hỏi điều đó. Trớ trêu thay, đó lại là cái độc đáo vô song, cái bản sắc tuyệt diệu của thơ Hồ Xuân Hương, cái tài “thi quỷ” của thiên tài Hồ Xuân Hương..). Chỉ ra một vài sơ sót nhỏ, chúng tôi mong rằng lần tái bản GS J. Balaban sẽ không khó khăn gì mấy để chỉnh lý bản dịch. Hồ Xuân Hương là một hiện tượng phồn tạp, đa nghĩa, cả về mặt văn bản và mặt ý nghĩa của văn bản, mặt thế giới quan và thi pháp… Suy cho cùng, đúng như GS-TS N.I.Nikulin (Nga) đã viết: “Rõ ràng là cùng với thơ ca của bà, một hệ thống thẩm mỹ mới mẻ đã đi vào văn học Việt Nam” (Lịch sử văn học Việt Nam, tr. 628, bản dịch Trung tâm Nghiên cứu Quốc học và Nxb Văn Học, 2007) và “thơ Hồ Xuân Hương như một cú đột phá của nền văn hóa dân gian Việt Nam còn chưa được thừa nhận vào lĩnh vực văn học nghệ thuật đỉnh cao” (Văn học Việt Nam từ thời Trung cổ đến hiện đại – thế kỷ X-XIX, Nxb Khoa Học Moskva, 1977, tr.242). Cái gốc, cái bản chất của Hồ Xuân Hương là văn hóa dân gian, và nó chịu sự chế ước của các tầng quan niệm, thi pháp, hình thức của mỹ học dân gian. J. Balaban đã nghiên cứu rất kỹ Hồ Xuân Hương, nhưng có rất nhiều, rất nhiều vấn đề về Hồ Xuân Hương mà giới nghiên cứu Việt Nam cũng còn đang tranh luận. Vì vậy, bản dịch Hồ Xuân Hương ra tiếng Anh được hoan nghênh ở Mỹ là một sự kiện văn hóa đáng khích lệ.
| ||||||||
[Quay lại] | ||||||||
|
28-04-2011 | ||||||||
| ||||||||
Chỗ này Hoạn Thư đánh giá cao tài năng của đối thủ, không chỉ khen ở mức độ viết chữ đẹp mà khen sự tu dưỡng văn hóa không phải tầm thường, khen ở chỗ bút pháp tinh diệu có thể so với nghệ thuật thư pháp nổi tiếng của Vương Hy Chi - một bậc “Thánh thư” đời Tấn. Trong các bản Kiều đều có chú thích điểm này, song chỉ nói rất sơ lược. Chúng tôi xin nêu lại những nét chính và bổ sung thêm đôi chút: Thiếp Lan Đìnhlà trang thiếp viết bài tản văn Lan Đình tập tự của Vương Hy Chi. Vương Hy Chi tự Dật Thiếu, hiệu Đạm Trai, sinh năm 321, mất năm 379 (?) đời Đông Tấn Trung Quốc. Ông là người ở Lang Nha, Lâm Triết (nay thuộc tỉnh Sơn Đông), xuất thân trong một gia đình quý tộc, cha và chú đều làm quan cao và giỏi thư pháp. Vương Hy Chi từ nhỏ hiếu học, yêu văn chương, tính tình cương trực. Từng làm quan đến chức nội sử Cối Kê, song vì bất hòa với Thứ sử Dương Châu nên từ quan, sống định cư ở Sơn Âm cho đến khi qua đời. Năm 12 tuổi, Vương Hy Chi được cha và chú dạy thư pháp, sau đó từng thụ nghiệp với các danh gia thư pháp như Vệ Thước, Trương Chi, Trọng Diêu. Sau ông đi chu du nhiều nơi, thu nạp những tinh anh nghệ thuật thư pháp của những người đi trước rồi tạo thành một bút pháp riêng vừa có nét cổ nhã truyền thống vừa có nét bay bướm tinh tế mới lạ. Vương Hy Chi có nhiều tác phẩm thư pháp nổi tiếng. Ngoài Thiếp Lan Đìnhlà tiêu biểu nhất, còn có những bản thiếp như Nhạc Nghị luận, Hoàng Đình Kinh, Đông Phương Sóc họa tán, Khoái tuyết thời tình thiếp… và một số sách lý luận về thư pháp. Thư pháp Vương Hy Chi có ảnh hưởng lớn đến con cháu. Các con trai ông: Vương Huyền Chi, Vương Ngưng Chi, Vương Huy Chi, Vương Tháo Chi, Vương Hoán Chi, Vương Hiến Chi đều là các danh gia, trong đó Vương Hiến Chi nổi bật nhất, cùng với cha là Vương Hy Chi được đời tôn xưng là “Nhị vương”. Hy Chi được tôn là “Thư thánh” còn Hiến Chi là “Tiểu thánh”, liên tục được các đời sau hâm mộ và học tập. Vương Hy Chi không chỉ là nhà thư pháp nổi danh mà còn là một nhà văn có nhiều tác phẩm được truyền tụng. Bài Lan Đình tập tự là một thiên tản văn có giá trị cao, được Từ điển văn học Trung Quốc (NXB Thượng Hải từ thư, 2000) đánh giá là “tuyệt bút”.
Bài văn được viết vào năm Vĩnh Hòa thứ 9 đời Tấn Mục Đế (tức năm 353 Tây lịch). Bấy giờ ở Lan Đình thuộc vùng Sơn Âm huyện Cối Kê có lễ hội Tu Hễ theo phong tục địa phương (lễ hội du chơi để xua tà cầu may), Vương Hy Chi cùng một số bạn bè tụ hội ở đây, cùng chơi trò thả rượu đọc thơ. Các bài thơ hoặc vịnh cảnh hoặc trữ tình của mọi người được chép lại thành tập gọi là Lan Đình thi tập và Vương Hy Chi được đề nghị viết bài Tự (tức bài Tựa) cho tập thơ đó. Bài Tự được cả hội tán thưởng không chỉ vì giá trị văn chương mà còn vì được chính tay tác giả chép ra với một bút pháp được xem là “tuyệt diệu vô song”. Nội dung bài được dịch nghĩa như sau: “Năm Vĩnh Hòa thứ 9, tuế niên Quý Sửu, vừa vào lúc cuối xuân, bạn bè tụ hội cùng nhau nơi Lan Đình, vùng Sơn Âm huyện Cối Kê để dự lễ hội Tu Hễ. Các hiền hữu trẻ già đều đến. Nơi đây có non cao núi đẹp, cây rừng xanh tốt, trúc biếc vươn cao, lại thêm suối trong chảy xiết, lấp loáng in bóng đôi bờ. Theo dòng nước uốn lượn, có thể chơi trò thả rượu làm thơ, mọi người đều chia thứ bậc cùng ngồi. Tuy không có tiếng đàn tiếng sáo, song một chén rượu, một lời ngâm, lòng cũng đủ vui mà giãi bày những tình cảm sâu xa chân thật. Ngày hôm đó, khí nhẹ trời trong, gió êm mát mẻ, ngẩng lên nhìn vũ trụ bao la, cúi xuống ngắm muôn loài tươi tốt, buông lòng cảm thụ, phóng thả tầm nhìn, cũng đủ tận hưởng sướng mắt sướng tai. Thật quả là vui. Phàm người ta khi gặp gỡ nhau, thời gian thường là ngắn ngủi. Có người thu lượm điều chí thú, cất giữ trong lòng, rồi cùng bạn bè trong phòng đàm đạo. Có người lại ký thác ra ngoài rồi buông thả theo tháng ngày phóng lãng. Tuy nắm giữ hay xả bỏ mỗi người một khác, thư tĩnh hay nóng vội cũng chẳng giống nhau, song đều lấy làm vui. Nhận vào cho mình rồi tự mình thỏa nguyện, chẳng biết rằng tuổi già kia đang sắp tiến tới nơi. Rồi đến lúc chán chường mệt mỏi, tâm tình theo sự vật đổi thay, dẫn đến chỗ lòng đầy cảm khái, những gì trước đây yêu thích, phút chốc bỗng thành thứ cũ xưa, rồi không thể không xúc động tâm tình. Huống chi tuổi thọ con người ngắn dài cũng đổi thay cùng với tự nhiên, rút cuộc rồi cũng đến hồi kết thúc. Người xưa từng nói: “Sống chết là chuyện lớn”, lẽ nào điều đó chẳng khiến đau lòng hay sao! Mỗi khi xét đến nguyên do cảm hứng của người xưa, thấy dường như cùng mình tương hợp, thì thường hay vì văn chương mà bi thương cảm thán, trong lòng chẳng rõ vì sao. Vốn biết rằng xem chuyện tử sinh không khác gì nhau là điều hư ảo, đánh đồng Bành Tổ trường thọ với Thương sinh yểu mệnh là cách nghĩ xằng. Nhưng người đời sau nhìn về người đời nay cũng giống như người đời nay nhìn về người đời xưa, thật đáng buồn lắm thay! Vậy nên, xin ghi rõ lại từng vị (cùng dự hội) và sao chép những lời thơ của họ, tuy khác thời, khác việc, song duyên cớ giãi lòng, thảy đều cùng giống như nhau. Người đời sau xem tới chắc cũng sẽ xúc cảm với những văn chương này chăng!" Bài văn chữ Hán chỉ có 324 chữ, âm thanh hài hòa lưu loát du dương, người xưa nói rằng đọc lên thật “khoái trá nhân khẩu”. Nội dung miêu tả vẻ đẹp của sông núi xung quanh Lan Đình và tình cảm vui vẻ tụ hội, bộc lộ những xúc động trước thiên nhiên và những cảm khái về lẽ sinh tử vô thường của tác giả. Bài văn vừa có vui vừa có buồn. Vui vì cảnh sắc đẹp tươi, vì bạn bè hội họp, song không phải vui về vật chất (không đàn sáo, không tiệc rượu… ) mà là vui tinh thần, vui triết lý. Còn buồn là tâm thái tự nhiên của con người trước sự biến đổi của tự nhiên, của muôn vật, của mệnh số con người. Buồn song vẫn là tích cực hướng thượng. Vẫn là thái độ điềm đạm, phong thái thung dung trước cuộc sống. Giọng văn ưu nhã, lời lẽ mượt mà thể hiện rõ thêm những điểm đó. Bài Lan Đình tập tự được lưu truyền lâu dài khi trở thành Thiếp Lan Đình.
Thiếp Lan Đình đặc biệt nổi danh về phương diện nghệ thuật thư pháp. Các nhà thư pháp có yêu cầu khi thưởng thức tác phẩm phải thư thái, phải tĩnh tâm và chú ý cảm thụ nét bút, thế bút, kết cấu toàn bài hình dạng từng chữ, thể thức biến hóa và tổng quan toàn bức. Theo như thế thì Thiếp Lan Đình được viết thành 28 hàng chữ. Ngắm nhìn sẽ thấy nét bút mềm và mượt chỗ lớn, chỗ nhỏ cân đối. Thế bút chỗ cương chỗ nhu, hài hòa vui mắt, nhìn thẳng nhìn nghiêng đều đẹp. Kết cấu chỗ thưa chỗ mau, trông tề chỉnh mà lại bay bướm. Đặc biệt là sự biến hóa tự hình, toàn bài có 20 chữ 之 (chi) mỗi chữ viết một kiểu, 5 chữ 懷 (hoài), 7 chữ 不 (bất) đều không hề lặp lại dạng chữ. Các chữ 以 (dĩ) chữ 為 (vi) cũng vậy. Nhìn tổng quan, đây là một bức tranh có hồn, chữ viết như rồng bay phượng múa, toát ra một khí phách hào hùng, lại mềm mại uyển chuyển thể hiện một phong độ cao nhã phóng khoáng. Những đánh giá trên đây là cảm nhận từ sự thưởng thức bản Thiếp Lan Đình hiện được lưu truyền. Các nhà nghiên cứu cho rằng, đây không phải là chân tích. Vì bản của Vương Hy Chi viết đã bị Đường Thái Tông do quá yêu thích, bắt cất giấu trong lăng mộ của mình. Bản hiện tồn là của Phùng Thừa Tố đời Đường mô phỏng chép lại được đương thời xem là giống nhất. Đối với nguyên tích của Vương Hy Chi thì sự đánh giá của người xưa không thật cụ thể song còn cao hơn: Các thư gia nổi tiếng thời Nam Triều là Ngu Hòa, Đào Hoàng Cảnh cho rằng, thư pháp của Vương Hy Chi vượt hẳn các danh gia đời Hán Ngụy. Lương Vũ Đế thì khen: “Thế chữ hùng dật, như long khiêu thiên môn, hổ ngọa phượng khuyết…”. Đường Thái Tông thì bình: “Chữ chữ hàng hàng, bảng lảng như mây bay, kiêu dũng như rồng lượn (phiêu như vân phi, kiêu như long cổn)”, thật là một bức tranh “tận thiện, tận mỹ”, và khuyên các sĩ tử nên học tập. Các thời đại sau cũng có nhiều ý kiến tán tụng Thiếp Lan Đình của Vương Hy Chi, xem đây là bức tranh thư pháp có giá trị nhất thời xưa. Ở Trung Quốc hiện nay rất thích thú nghệ thuật thư pháp. Có nhiều nghiên cứu về Vương Hy Chi, về thân thế, chí hướng, tài năng, quá trình rèn luyện thư pháp của ông, ảnh hưởng của ông đối với các thời đại sau. Rồi vấn đề chân ngụy của bản Lan Đình tập tự, vấn đề thưởng thức đánh giá thư pháp. Có nhiều giai thoại lý thú về “Thư thánh” Vương Hy Chi và con trai ông - Vương Hiếu Chi, cũng là một nhà thư pháp nổi tiếng. Ở ta, phong trào phát triển nghệ thuật thư pháp cũng đang rầm rộ. Thú chơi tao nhã này đang hấp dẫn giới trẻ. Thư pháp chữ Việt cũng đang phát triển phong phú, đa dạng. Đó là điều thật đáng vui. | ||||||||
[Quay lại] | ||||||||
|
Vài lời giới thiệu của chủ blog:Về các bài viết thương tâm về cậu bé 9 tuổi, rốt cuộc chỉ là hư cấu. Hôm nay xin giới thiệu bài báo của blogger NLG, cựu sinh viên du học NB, có rất nhiều nghề. NLG tên thật là Hồng Lê Thọ, ngày xưa thích đi theo lề trái (bạn nào tò mò tra Wickipedia sẻ biết nguồn gốc của lề phải trong nghị viện là nới đại diện của Giáo Hội, của Chúa, của nhà cầm quyền quân chủ, bên trái dành cho phe tiến bộ, phe đòi cải cách xã hội, phe của đảng xã hội). Ngày nay, tuy đảng và nhà nước xà hội chủ nghĩa, là phe trái. Không biết từ lúc nào NLG chụp mủ nhà nước, DCS VN, đã chạy qua bên phải rồi.Bạn nào chú ý xem thì trong blog của NLG cũng có nhiều nhận xét, nhưng toàn là ý kiến và nhận xét của NLG. Xem ra NLG này cũng chuyên chế lắm. Không phải ai muốn góp ý là được. Anh Hồng Lệ Thọ cũng lắm nghề, ngày xưa nghề viết là nghề tay trái, rồi nghề buôn, hình như là học về Kinh Tế hay là Xã hội học. Theo tôi biết thì anh Thọ chưa có Thạc sỉ, thế nhưng cũng nghe nhièu người bảo là Tiến Sỉ Hông Lê Thọ. Nghe cũng bảnh phết.Chủ blog là người vô thưởng vô phạt, nhưng tôn trọng sự thành thật (fair) và tinh thần thượng vỏ (sportmanship). Chúng ta có thể đặt và viết những hư cấu để dạy đời, nhưng phải minh bạch mới được.Thân mến.
Fukushima tan hoang sau thảm họa, nhưng Sendai thì không. |
8 nhận xét:
xim mời đọc bài nầy, có nhiều chi tiết ở phần ý kiến bổ sung
THƯ CẢM TẠ CHÍNH PHỦ VÀ NHÂN DÂN VIỆT NAM CỦA THỦ TƯỚNG NHẬT BẢN KAN NAOTO" do Hà Minh Thành dịch ?
http://nguoilotgach.blogspot.com/2011/04/thu-cam-ta-chinh-phu-va-nhan-dan-viet.html
Thanh Thanh(Hà Nội) nói:
Cờ đương dở cuộc không còn nước
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng...
(Nguyễn Khuyến)
1/5/2011
Hà Trung (Tokyo)
Theo dõi, "HMT" là bút danh của một ông chủ tiệm bán nước mắm, băng dĩa nhạc hải ngoại ở Tokyo ? Cách hành văn và dùng "hán tự" ba rọi của ông nầy thì tôi đảm bảo ông nầy là người đóng vai thông tấn viên(tự do) cho một vài đài nước ngoài...đói tin ở Nhật. Xin chào thua!
Phan Tuan(San Diego)
Tôi vừa đọc bài trả lời của NV PV Đào, tôi thấy bác say sưa ca ngợi thần tượng của bác kinh quá, hình như bác không còn thấy được sự giả dối của "HMT" trong vụ điểm cao Lão Sơn, bài dịch của thủ tướng Nhật, bằng cấp TS-CA giả hiệu...người Việt ta có cấu "có mắt mà như mù" hay "có tai mà như điếc", không đúng với trường hợp nầy chăng ?
Bài nầy đang ở đây:
BÁO ĐẤT VIỆT: VI PHẠM LUẬT BÁO CHÍ; VI PHẠM ĐẠO ĐỨC NGHỀ BÁO ( Phần 1 )?
http://phamvietdaonv.blogspot.com/2011/05/bao-at-viet-vi-pham-luat-bao-chi-vi.html
Mong là Đất Việt có bài trả lời bác Đào để chúng tôi được hiểu thêm chân tướng của nhà văn dữ dằn nầy chứ còn nhân vật HMT thì không cần phải bận tâm nữa khi mọi sự việc của anh ta bày ra đều là giả dối và phét lác.
Hoang VH(Tokyo)nhắn:
Tôi cũng vừa đọc xong, xin góp cảm nghĩ như sau:
Bác PV Đào ơi, bác nói HMT "trong sáng", "quang minh chính đại" mà lại sử dùng nick name, chôm bài dịch của đại sứ quán NB ở Hà Nội làm của mình, đóng vai CA giả hiệu, mạo nhận "TS công học"...tùm lum ? "Trò chơi chữ nghĩa" của bác đấy ư ? Tôi đang chờ bài(2) của bác đây.Tôi bắt đầu nghi bác và cái ông TS-CA HMT cùng sáng tác ra em bé Soma 9 tuổi nên bấy giờ bác chịu "cố đấm ăn xôi" ?
Long Dung Thomas(Virginia) nói:
Mấy anh ở Nhật có ý kiến rất hay, xác đáng lắm. Xin cảm ơn.
Bác PVĐ lôi luật nầy luật nọ ra nổ ghê quá, nhưng bác quên luật đời là không ai ưa chuyện ba hoa,bốc phét và dối trá !
Sáng sớm nay, NV PV Đào đã đăng phần (2), mời bà con vào đọc ở đây:
BÁO ĐẤT VIỆT: VI PHẠM LUẬT BÁO CHÍ; VI PHẠM ĐẠO ĐỨC NGHỀ BÁO ( Phần 2 )?
http://phamvietdaonv.blogspot.com/2011/05/bao-at-viet-vi-pham-luat-bao-chi-vi_04.html
Hoang VH(Tokyo)nhắn:
Đọc luôn phần (2) rồi, chán phèo vì tác giả nói nhăn nói cuội...tấn công cá nhân nhà báo nào đó để đánh lạc hướng. Ông Đào đã khg giải thích được hành động và ngôn từ xảo trá của "HMT" vậy mà còn hứa bài (3) nữa !"Tả xung hữu đột" cũng không dấu được chiếc kim toa rập nói dối trong bọc. Tỉnh lại đi bác Đào ơi.