Đôi lời của chủ blog:
Xin giới thiệu các bài nhạc xưa được đăng trên diển đàn exryu-ww-forum
***Link for HD YouTube:
help center | e-mail options | report spam | |
trannangphung has shared a video with you on YouTube: |
|
- Luân Hoán
- Trần Huiền Ân
- Hoàng Lộc
- Trần Hoài Thư
- Hoàng Xuân Sơn
- Văn Thùy
- Xuân Mai
- Lê Trung Cang
Kính.NNS ..........................................................................................................................................Thơ:
Thất Tình, Rượu Và Thơ
Luân Hoán
thất tình uống ruợu làm thơ
xưa ta có vẻ dật dờ dễ thương
dù chưa có chi đáng buồn
tơ tơ tưởng tưởng vấn vươn một chiều
thế nhưng liên tục thật nhiều
hết Thúy Vân đến Thúy Kiều, Nguyệt Nga...
hầu như tất cả đóa hoa
ta thấy thấp thoáng đã là nhớ nhung
chưa quen đã mộng nằm chung
trên trang giấy viết lung tung hồ đồ
được mệnh danh là bài thơ
tình yêu giàu có ước mơ chân tình
vài hôm, phát hiện thình lình
cuộc tình vô vọng làm thinh rút dù
tình buồn như lá mùa thu
nối đuôi theo gió bay mù cõi thơ
rượu, nhiều khi nốc không vô
nhiều khi chỉ kịp giả vờ say thôi
đến tình cũng mới khơi khơi
chưa đủ độ khổ cho lời thành tâm
thi ca cõi tạm nương thân
vài ngày chi đó rồi lòng lại vui
theo môi theo mắt của người
chợt gặp chợt thấy tuyệt vời thương yêu
cứ quanh quẩn chỉ bấy nhiêu
gặp, yêu, bất lực, luyện chiêu thất tình
ta xưa nhờ vậy thông minh
lại thêm lém lỉnh tập mình làm thơ
thơ thẩn có lợi chi nào ?
may được em nguýt bất ngờ nhiều hơn
cái háy của em có hồn
đọng lâu chua xót bào mòn tim gan
nỗi buồn không quá nhẹ nhàng
nên hương rượu đủ ngang ngang cổ đầy
thất tình khó viết thơ hay
nhưng ta quả được loay hoay thơ hoài.
...............................................................................................Trần Hoài Thư Một Nửa Vầng Ngọc Lan
em xa nhà, tôi xa quêem bỏ đi, tôi cũng đi, chẳng về
kể từ sông núi từ ly
đá ê ẩm đá người ê ẩm người
em đi, thị trấn ngậm ngùi
có con phố cũ nhớ người đèn chong
em đi, buồn lại dòng sông
bên này, buồn lại nửa vầng ngọc lan
may còn một nửa vầng trăng
dỗ tôi soi bóng dặm ngàn ly hương .....................................................................................................
Về Xóm Nhỏ
Trần Huiền Ân
Ta về quê cũ theo chân bạnNhư hồi tuổi trẻ dắt tay nhau
Sáu mươi năm bấy nhiêu ngày tháng
Ruộng vẫn đơm xanh lúa một màu
Ta về lỡ vấp nơi triền dốc
Giọt máu hồng rơi xuống đất mềm
Có phải người xưa ai khẽ nhắc
Đường đi nước bước... lẽ nào quên?
Ta về dưới gốc đa trăm nhánh
Khóm đá rêu mòn trải cuộc chơi
Bàn cờ kẻ đậm lằn than vạch
Sỏi sạn bày quân tướng sẵn rồi
Ta về lưng ngả trên nền cỏ
Nghe mùi lá ủ thoảng hăng hăng
Con bướm bay vòng vòng khóm đế
Giữa chiều thung lũng vệt mây giăng
Ta về đêm lạnh ngồi quanh bếp
Củi gộc bùng lên ngọn lửa cười
Tiếng vạc canh khuya chừng đếm nhịp
Tiếng gà thưa thớt gáy đôi nơi
Ta về xóm nhỏ chào xuân mới
Vàng bông vạn thọ nắng thêm vàng
Bâng khuâng... tựa thuở nào mong đợi
Trong lòng thương nhớ những mang man
Rợp Bóng Ca Dao
cho anh xin chịu làm người thua cuộcdáng phong lưu tập mãi vẫn không thành
lối nói văn hoa điệu cười chải chuốt
tự thuở giờ đâu duyên nợ ba sinh
mai anh về nơi đồng sâu đồng cạn
hai buổi thăm đồng hết mạ quảy thêm
hơi thuốc bờ tre khói chè vương vấn
nồm hây hây ru giấc ngủ êm đềm
anh sẽ kêu này trâu hời trâu hỡi
nghiệp cấy cày trâu đó có ta đây
nay nước bạc mai cơm vàng vời vợi
mùi lúa thơm bên ngọn cỏ xanh đầy
anh sẽ nghe người gái quê chất phác
tha thiết mặc lòng chưa dám cầm tay
trong nắng ấm buổi chiều lên tiếng hát
một mai nào... muối mặn với gừng cay
anh đã hiểu. Chúng mình xa lạ lắm
kẻ dưới trần người mộng ước trăng sao
đường em bước đường phù hoa mấy dặm
anh theo về đường rợp bóng ca dao ................................................................................................................Hoàng Xuân Sơn
Hỏi trúc
Quanh quanh mấy ngõ trúc lành
Hỏi thăm nghé ọ quê mình giờ đây
Nắng còn reo ở trên cây
Hay buồn hương lý rụng đầy trái soan
Chữ o em học chưa tròn
Chữ mai sau có nhọc hồn núi sông?
............................................................................................................................Hoàng LộcTổ trátdẫu mấy lần cúng tổmà tổ cũng trác mình
ôi cái thư gửi vợ
nhè đem gửi cho tình !
(mù mờ em trong anh
thư của tình gửi vợ !)
ví là cái thư tay
may ra còn cứu kịp
thời của thời điện thư
bấm đi là thấy chết !
hèn chi không là tổ
tổ lừa là xong đời
bó tay ngồi một chỗ
vợ ơi và tình ơi !
(22-10-2011)
.......................................................................Văn Thùy
Đám cưới mưa bay
Ngày em bỗng vụt lấy chồng
Tự nhiên mưa bảo nau vòng xe hoa
Tại em hay tại thông gia
Mà trầu cau trẻ cũng già mau hơn
Ham giầu, em kén lái buôn
Thảo nào tôi lỗ vón buồn mấy năm
Người ta cưới mất trăng rằm
Nửa ngày tôi lẩn thẩn nằm đếm sao
Bây giờ chả biết thế nào
Bắt đền đám cưới, làm sao thì làm...
Người đi vui đến vô vàn
Tôi ngồi chuyện với ngút ngàn bão giông
Nhân duyên nước chẩy đôi dòng
Tôi thành bong bóng xà phòng vỡ đôi
Em trôi ra tít biển khơi
Tôi thầm nghe cát hát lời bãi sông
Rồi em tan giữa mênh mông
Nhớ chăng nguồn suối luồn trong núi già
Em là hoa của vườn hoa
Mà hoa chẳng mọc đất nhà vườn tôi
Nước bay còn đọng mặn môi
Em bay tôi chỉ biết đòi hạt mưa
Xe hoa hôm ấy khô chưa?
Heo may gió mắt ai vừa trộm bay.
........................................................................................
Xuân Mai
CẢM THU
Trời đã vào thu, thu vấn vương
Trong đôi mắt ướt ánh thu buồn
Ngỡ ngàng sắc lá khoe muôn sắc
Rực rỡ huy hoàng trong ánh dương
Thu đến sương thu tím diệu kỳ
Lòng người thổn thức tiếng chim di
Rừng phong xao xác, rừng thay lá
Lá rụng nai vàng ngơ ngác đi
Thảm lá muôn màu như xác hoa
Chao ôi thu đến mộng chan hòa
Như từng cánh bướm nghiêng đôi cánh
Mang đến hồn ta bao thiết tha
Thu đã giao mùa em biết không?
Mắt xanh ai đó đã trao lòng
Nhắn từng chiếc lá khi em đến
Ánh mắt bờ mi có đợi mong?
Anh muốn trao em những nụ hôn
Giữa rừng thu lá đổ chiều buông
Có bầy nai nhỏ lang thang bước
Cả một khung trời thu vấn vương
Thu đã đi rồi em ở đâu?
Nhìn theo xác lá bỗng dưng sầu
Em ơi thu chết! Mùa thu chết
Để lại hồn anh đôi mắt nâu.
Trong đôi mắt ướt ánh thu buồn
Ngỡ ngàng sắc lá khoe muôn sắc
Rực rỡ huy hoàng trong ánh dương
Thu đến sương thu tím diệu kỳ
Lòng người thổn thức tiếng chim di
Rừng phong xao xác, rừng thay lá
Lá rụng nai vàng ngơ ngác đi
Thảm lá muôn màu như xác hoa
Chao ôi thu đến mộng chan hòa
Như từng cánh bướm nghiêng đôi cánh
Mang đến hồn ta bao thiết tha
Thu đã giao mùa em biết không?
Mắt xanh ai đó đã trao lòng
Nhắn từng chiếc lá khi em đến
Ánh mắt bờ mi có đợi mong?
Anh muốn trao em những nụ hôn
Giữa rừng thu lá đổ chiều buông
Có bầy nai nhỏ lang thang bước
Cả một khung trời thu vấn vương
Thu đã đi rồi em ở đâu?
Nhìn theo xác lá bỗng dưng sầu
Em ơi thu chết! Mùa thu chết
Để lại hồn anh đôi mắt nâu.
Tìm lại Tự Do
" Tâm hồn cũng như con chim, càng lên cao càng khoan khoái "
(Lời một nhà văn Âu châu)
(Lời một nhà văn Âu châu)
Nắng chiều đã nhạt. Bóng những tàng cây duỗi dài trên mặt đường cũng nhạt dần theo độ nắng. Trời sâu thẵm không một gợn mây, xanh biếc. Vài cơn gió nhẹ thoáng qua lung lay cành lá. Một chú sóc con chợt xuất hiện từ lùm cây ven rào, dáo dác nhìn quanh rồi phóng vội lên thân cây, mất dạng.
Trên chiếc ghế bành cũ dựa lưng vào tường dưới mái hiên sau nhà, Thịnh ngồi yên như bất động đã hàng giờ. Một quyển sách nhỏ bìa xanh đang đọc dở nửa chừng nằm úp trên chiếc bàn con bên cạnh. Nietzche hình như đã bị ngắt lời khi đang miên man nói về Thiện và Ác.
Hôm nay, Thịnh không phải làm giờ phụ trội ngày Thứ Bảy. Buổi sáng, sau khi thức dậy và làm xong một ít công việc vặt vạnh trong nhà, Thịnh lái xe vào phố. Thời tiết không còn giá lạnh nửa, trời bắt đầu ấm và rực nắng mùa Xuân. Phố đã đông người, xe cộ rộn ràng. Thịnh tìm chỗ đậu xe và bách bộ một vòng dọc theo các cửa hàng nằm bên ven đường; rồi ghé vào cửa hàng sách lớn nhất của phố, một trong những nơi Thịnh thường lui tới nhất trong những ngày nghỉ. Sau gần hai giờ xem và lựa chọn, Thịnh đã mua được đôi quyển vừa ý.
Trời đã xế trưa, Thịnh cảm thấy đói. Lái xe đến quán ăn quen thuộc ở góc đường, đầu kia của phố, Thịnh mua vài món ăn ưa thích để về ăn cùng Phượng. Giờ nầy chắc Phượng đã dậy rồi. Sáng nay, Phượng ngủ hơi trưa vì đã thức khuya suốt mấy đêm qua học ôn cho các kỳ thi trong lớp.
......
Tính kể từ ngày rời Việt Nam cho đến nay, Thịnh đã cư ngụ tại thành phố này hơn bốn năm, quảng thời gian khá dài cho xa cách, chia ly nhưng lại quá ngắn cho sự nguôi dần những nhớ thương ray rức.
Rời quê hương, Thịnh chẳng mang được gì theo ngoài Phượng, cô em gái duy nhất của mình. Thực ra, Thịnh cũng chẳng có thứ gì khác quý giá để mang theo ngoài những tình cảm, kỹ niệm chìm trong ký ức.
Phượng, em gái của Thịnh, năm nay vừa tròn mười chín, tuổi hồn nhiên, yêu đời, tuổi của sách vở, trường lớp. Vì chỉ vỏn vẹn có hai anh em chung sống với nhau, không họ hàng, thân thích nên Thịnh rất yêu thương và nuông chiều Phượng. Thịnh chăm sóc, bảo bọc em như một người Cha và sống thật gần gủi với em như một người Mẹ. Ngược lại, Phượng cũng rất yêu thương và kính nể anh. Phượng yêu thích chuyện trò với Thịnh và thường đem mọi thắc mắc hỏi anh để được giải đáp khi được hỏi. Thịnh luôn vận dụng mọi hiểu biết sẳn có để giải thích, hướng dẩn em thật tận tường. Có điều gì không hiểu, Thịnh cố gắng suy tư hoặc tìm hiểu thêm qua sách vở, báo chí rồi trở lại vấn đề với Phượng.
Một trong những thắc mắc của Phượng mà Thịnh chưa giải đáp được một cách thỏa đáng là: vì sao Thịnh phải bỏ xứ ra đi và mang theo Phượng sang sống nơi xứ lạ quê người. Thịnh cảm thấy có vài khó khăn khi phải nói về vấn đề nầy với cô em gái đang tuổi thanh xuân, tuổi với tâm hồn phóng khoáng, vô tư, với những cảm nghĩ thẳng thắng, chân thành, trọng lý tưởng, đặc điểm đáng quý của lứa tuổi thanh niên.
Thịnh còn nhớ: trước đây cũng có vài người bạn Mỹ đã từng hỏi Thịnh những câu tương tự. Thịnh có hơi lúng túng khi phải trả lời. Vì làm thế nào để có thể đạt được một câu trả lời thật trọn vẹn: vừa nói lên sự thật vừa thành thật với người và với chính mình. Sau cùng, theo thiển nghĩ của Thịnh: có một câu trả lời được xem là tương đối thỏa đáng vì đã nói lên được phần nào sự thật và phần nào làm hài lòng người nghe, đó là tìm Tự Do.
Thật vậy, trên đất nước nầy sau một tiến trình đấu tranh và xây dựng lâu dài, người dân bản xứ đã tạo được một nền Dân Chủ, Tự Do hầu như vượt bực. Nhờ vậy, mọi người không phân biệt là bản xứ, di dân hay tị nạn đều có cơ hội sống trong bầu không khí tự do như nhiều người hằng mơ ước.
Tuy nhiên, trong những giây phút suy tư và nhìn lại cuộc sống, Thịnh bổng nhận ra: giữa bầu không khí tự do bao bọc chung quanh vẫn còn đầy dẩy những xiềng xích, gông cùm đang trói buộc con người. Là một con người, Thịnh cũng không thể nào vượt thoát được để trở thành ngoại lệ. Những gông cùm, xiềng xích ấy đã làm cho con người mất tự do giữa một khung cảnh hoàn toàn tự do. Con người đã thực sự mất tự do, tự do với ý nghĩa Triết học của nó.
Lúc ban đầu, Thịnh ngỡ chỉ có mình Thịnh bị mất tự do. Thịnh lo lắng và cố gắng suy tư để tìm cách vượt thoát. Rồi Thịnh bổng nhận ra mãnh lực của sự trói buộc và tù đày nầy. Đấy là những thứ gông cùm, xiềng xích không được làm bằng sắt, thép mà chỉ là những sợi dây vô hình có sức trói buộc con người không phân biệt giàu sang, quyền thế, học cao hay chỉ có những kiến thức khiêm nhường với cuộc sống vừa tầm trong xã hội, không phân biệt tuổi cao hay tuổi còn non kém về kinh nghiệm đời.
Đã từ lâu, Thịnh mơ ước một khung trời tự do và nay Thịnh đã đạt được, khi sống trên quê hương thứ hai nầy. Tuy nhiên, từ trong những kinh nghiệm đến từ cuộc sống, Thịnh đã nhận ra: muốn có được hạnh phúc con người phải thực sự tự do, một thứ tự do giúp con người thoát khỏi những trở lực ràng buộc từ cuộc đời bên ngoài và đặc biệt là những trói buộc từ bên trong của chính bản thân mình. Đó là sự tự do, nền tảng của mọi thứ tư do khác. Chính những sự trói buộc từ bên trong đã làm cho con người mất tự do và điều đáng ngại là những trói buộc nầy đã làm cho người mất tự do lại không biết là mình đang mất tự do mà cứ ngỡ rằng mình đang có tự do một cách tuyệt đối.
Sau khi thấy được giá trị của tự do, Thịnh đả cố gắng không ngừng để vượt lên, để giải thoát cho chính mình, để có được thứ tự do hàng mơ ước. Thịnh chưa hề có ý nghĩ giải phóng cho bất cứ một ai vì đó là một công việc vô cùng vỉ đại; vả lại làm thế nào có thể giải phóng cho người trong khi chính mình còn đang bị xiềng xích, đang bị đầy ải, đang mất tự do. Muốn vượt lên được, trước tiên Thịnh đã rất thẳng thắn và can đảm với chính mình, không tự che đậy, lừa dối hay trốn chạy. Thịnh đã đối diện và nhìn thẳng vào chính mình.
Từ suy tư và nhận thức, Thịnh đã nhận ra được những nguyên nhân chính yếu: những hờn giận, sân si, những thiên kiến, tâm địa hẹp hòi, sự háo danh, kiêu ngạo, mặc cảm tôn, ti, sự ích kỷ, ghen tuông, đố kỵ, những lời nói lưỡng thiệt gây chia rẻ, thù hận, những câu chuyện làm quà ... đã làm cho người mang nó mất tự do và không tự biết. Cạnh đấy, còn biết bao xiềng xích khác đã trói buộc tâm hồn và tác động mạnh mẽ, nhưng tiềm tàng trong cuộc sống tâm tình của con người. Đây chính là những xiềng xích con người đã tự áp đặt trên chính bản thân, rồi từ đấy tự âm thầm làm khổ mình và gây buồn phiền cho tha nhân. Đây là những xiềng xích, trói buộc mà chỉ có chính mình mới có thể phá vở và tự giải phóng. Muốn tự giải phóng phải có ý thức và lòng yêu tự do, phải vận dụng trí tuệ và cố gắng thường xuyên.
Thịnh sau những ngày tháng suy tư, nhìn lại chính mình, đã và đang chặt đứt dần những xiềng xích đang trói buộc mình để tìm lại tự do, một thứ tự do làm cho người có ý thức về tự do cảm thấy sung sướng và hạnh phúc. Đó là sự tranh đấu cho Tự Do không bạo động, không được cổ vỏ hay ca ngợi và chỉ có người đạt được sẽ tựï thưởng thức thành quả của mình.
Thịnh còn nhớ có lần đã đọc thấy lời của Đức Thích Ca: "Chỉ có sự chinh phục mang lại thanh bình và hạnh phúc là chinh phục chính Bản thân ta". Thịnh đã và đang chinh phục chính bản thân mình. Thịnh rời Việt Nam để tìm tự do và ngày nay trên dãy đất đầy tự do nầy Thịnh đang nổ lực tìm lại tự do, tự do cho chính tâm hồn mình, một thứ tự do phải nổ lựïc mới tìm thấy và không ai có thể tạo dựng cho người khác được. Thịnh cảm thấy khoan khoái và hạnh phúc, vì đã thoát dần những trói buộc mình muốn dứt bỏ dù cũng còn nhiều cam go, còn phải tự phấn đấu một cách kiên trì và lâu dài và có lẻ sẽ đến lúc cuối đời mới có được phần nào kết quả mong muốn.
Dòng suy tư đã đưa Thịnh trở về vùng ký ức với câu chuyện của Ngài Đạo Tín. Tổ Đạo Tín là vị Tổ thứ tư của Thiền Tông Trung Hoa, một hôm khi còn là sa di theo học với Tổ thứ ba là Tổ Tăng Xán, đã hỏi Thầy:
" Bạch Hòa Thượng, xin Hòa Thượng dạy cho con phương pháp giải thoát ".
Tổ Tăng Xán nhìn sửng vào mặt Tổ Đạo Tín và hỏi:
" Ai trói buộc nhà ngươi ?"
Tổ Đạo Tín chợt suy nghĩ và không nhận ra được: Ai đã trói mình. Sau một lúc, Tổ Đạo Tín thưa cùng Tổ Tăng Xán:
" Bạch Hòa Thượng, không ai trói buộc con hết ".
Tổ Tăng Xán bèn nói:
" Như vậy, ngươi cần ta dạy cách giải thoát để làm gì ? ".
Nghe xong, Tổ Đạo Tín liền tỉnh ngộ.
Nắng chiều đã tắt dần, trời bổng trở lạnh, một cái lạnh nhè nhẹ và dịu dàng của những ngày Đà Lạt vào Xuân. Thịnh chợt nhớ: đã hứa đưa Phượng đi ăn và xem Ciné đêm nay. Gần mấy tháng qua vì quá bận việc, Thịnh đã không có thì giờ đưa em đi ăn tiệm. Đêm nay, Thịnh nhất định sẽ đưa Phượng đến nơi Phượng ưa thích nhất. Nghĩ đến gương mặt tươi, sáng với nụ cười hồn nhiên của Phượng mỗi khi có điều chi hài lòng, Thịnh cảm thấy sung sướng và thương em vô tả...
....................................................................................................................................................Kính,NNS--
Phung Nang Tran
__._,_.___
MARKETPLACE
.
__,_._,___
From: cuong tran <cqtr2005@yahoo.com>
To:
Sent: Wednesday, November 9, 2011 1:09 AM
Subject: [Exryu-ww-Forum] Fw: NNS = Sac Hoa Mau Nho (HD YOUTUBE &PPS).
----- Forwarded Message -----
From: Minh Ngoc <mngoctran@gmail.com>
To:
From: Minh Ngoc <mngoctran@gmail.com>
To:
Sent: Saturday, November 5, 2011 5:58 AM
Subject: NNS = Sac Hoa Mau Nho (HD YOUTUBE &PPS).
Subject: NNS = Sac Hoa Mau Nho (HD YOUTUBE &PPS).
No comments:
Post a Comment