Vũ Trọng Phụng
Vì có "việc quan", bữa ấy tôi phải vào tòa xứ Hà Ðông. Tôi bước chân vào công đường lúc 9 giờ sáng, phải ngồi khoanh tay đợi trên một chiếc ghế dài mãi cho đến 11 giờ. Cụ phán buồng giấy ấy, theo những thông lệ thiêng liêng của nước Việt Nam cố hữu, đã tiếp tôi bằng sự nhăn nhó, sự gắt gỏng, để mà, sau cùng, bảo tôi đến chiều thì quay trở lại để cụ tiếp một lần nữa. Tôi đã vâng vâng dạ dạ như một người công dân hiểu rõ cái quyền hạn vô hạn của một quan phán đầu tòa là thế nào.
Khi ra khỏi vườn hoa của tòa sứ, tôi phải đành đi tìm một hàng cao lâu. Và, tại đó, tôi đã tình cờ được gặp anh Doãn, một người bạn đồng học cũ ở lớp nhất một trường sơ học.
Anh ta có bộ âu phục rất chải chuốt. Xưa kia, lúc còn cắp sách, anh ta cũng đã có tính làm đỏm như một cô con gái, và mãi cho đến bây giờ, tính ấy cũng không thay đổi, sau một chặng đường mà anh ta đã đi trong mười năm. Cái cổ áo không xộc xệch một tị, đôi mũi giầy không có một hạt bụi, cái ca vát rất hợp thời trang, với cái khuy áo cài vào tử tế, đủ tỏ rằng anh thận trọng y phục lắm. Chính anh Doãn nhận được ra tôi là ai, và đã đến bên bàn tôi, giơ tay ra, kính cẩn như người ta muốn hỏi chuyện một khách lạ chưa quen biết một lần nào.
- à à! Anh Doãn! Vẽ chuyện lắm! Việc gì còn xưng hô kiểu cách...
Mới có đến đấy, một người đàn bà to lớn đã bước vào, ngơ ngác đứng sau lưng anh. Doãn bèn quay lại, giới thiệu tôi là bạn; giới thiệu người đàn bà là vợ. Sau khi kéo ghế ngồi rồi, vợ anh Doãn gọi ngay một ấm chè Long Tỉnh, thạo đời như một người đàn ông "cơm hàng cháo chợ, vợ cô đầu". Tôi nhìn người đàn bà ấy, thấy đó là một sự trái ngược với người bạn cũ. Thật vậy, đó không phải là một cặp vợ chồng tốt đôi. Tức thì tôi nhớ lại tất cả những đức tính buổi xưa của Doãn.
Anh ta vốn thông minh, lại rất có óc mỹ thuật. Không kể về y phục của Doãn xưa kia đã được cả trường khen là sang trọng, ngay đến một cái bút chì, một hộp thuốc vẽ của anh, cũng đều là những đồ dùng đắt tiền và lọc lõi vô cùng. Ngoài cái chức là một thiếu niên sành sỏi, Doãn hồi ấy lại còn được chúng tôi gọi là một chàng Don Juan. Thật thế, anh có tài ngôn ngữ, có tài văn chương, nên chim gái rất thạo. Những thiếu nữ si mê anh phần nhiều là những gái đẹp có tiếng, vì cô nào không là hoa khôi thì anh ta không thèm bắt chim! Anh đã thường khoe chúng tôi những giấy viết thư tình của anh với những cái phong bì kiểu cách, đáng bảy xu một chiếc. Trong những lúc ấy, trước sự kính phục ghê gớm của chúng bạn, anh Doãn thường đứng ưỡn ngực, chỗ cái xe đạp Peugeot grand luxe khác của anh mà rằng: "Chúng mày xem! Phi hơn người thì thôi, tao không thèm chơi".
Bây giờ thấy anh ngồi với một người vợ không có "mỹ thuật" chút nào cả, lại thấy cái tính cầu kỳ của anh vẫn không thay đổi, tôi chợt nhớ ngay đến câu phương ngôn: "Sướng lắm thì khổ nhiều". Ðó là một sự nhãn tiền quả báo.
Vợ anh, thật vậy, là một người đàn bà có cái nhan sắc của một người đàn ông không đẹp giai. Hai con mắt nhỏ, đôi gò má cao, cặp môi phàm phũ, dáng người thô tục, những ngón tay tròn và dài như những quả chuối ngự. Như vậy mà lại đi ăn mặc tân thời! Răng trắng nữa, trời ạ! Cái áo dài lượt thượt mầu xanh, cái quần nhiễu trắng trai lơ, đôi giầy cao gót có quai kiểu gái nhảy, với mẩu khăn vành dây, ngần ấy thứ lại càng làm lộ cái mỹ miều của sự thô tục, lại càng làm tăng cái choáng lộn của sự kệch cỡm. Ðã thế, trong khi chuyện trò, thỉnh thoảng lại chêm vào một vài câu tiếng tây, ra ý khoe khoang mình vốn là nữ học sinh. Tôi bỗng có cái cảm tưởng man mác rằng người đàn bà này, những lúc nhà vắng, hẳn đã huýt còi như một ông lính tây say rượu, hoặc là đã hát ầm ĩ bài J'ai deux amours, bài Les gars de la marine... vân vân.
Tôi không ngạc nhiên ở chỗ anh Doãn lấy vợ xấu. ở đời, tôi đã từng thấy cái câu "thánh nhân hay đãi khù khờ" hiện ra nhiều sự thực và càng những thằng "thiên tinh địa quỷ" như Doãn mới lại càng... chết; anh ta muốn chừng như cũng đoán nổi cái ý nghĩ kín đáo ấy trong lòng tôi.
Trong khi còn nói những chuyện nắng mưa theo khách sáo, chưa kịp gọi món ăn nào cả, vợ anh Doãn đã làm ngay một câu:
- Thôi, tôi đói lắm, cho tôi xin bát mì, rồi tôi còn đi đằng này! Hai ông xơi rượu thì cứ việc mà kề cà...
- Vâng, xin mời bác cứ tự nhiên cho tiện công việc.
Thế rồi người đàn bà ấy ăn uống nhồm nhoàm, và ho, và ợ nữa, như một người đàn ông bình dân xứng đáng. Lúc ăn xong bát mì, người đàn bà cầm hai cái đũa quệt ngang cặp môi như một bà lão nhà quê!
Sau khi vợ anh ra phố mua bán, Doãn bèn hỏi tôi:
- Chắc anh rất ngạc nhiên khi thấy một người như tôi mà lại đi lấy một người vợ như thế ấy?
Tôi vội vàng ngừng đũa, làm ra vẻ ngạc nhiên:
- Sao? Sao anh lại hỏi tôi thế nhỉ?
Có lẽ sự vờ vĩnh của tôi không được tự nhiên mấy nên anh Doãn mỉm cười mà rằng:
- Chà! Cái thằng mới sính đóng kịch làm sao! Thôi, trong chỗ chúng ta, tôi cho phép anh cứ việc nói thẳng những điều anh nghĩ.
Tôi bèn nói:
- Vợ chồng là duyên số. ở đời này không phải hễ mình muốn thì là được và không muốn thì là thoát.
Doãn gật đầu:
- Thật thế. Và, tôi xin kể vì lẽ gì mà tôi lại lấy nhà tôi.
Tôi giơ tay ngăn lại:
- Khoan đã! Thế anh có yêu vợ anh không? Vợ chồng anh có được hưởng hạnh phúc không? Nếu không, xin đừng kể chuyện.
- Có chứ! Chúng tôi yêu nhau và hưởng hạnh phúc cũng như những cặp vợ chồng chẳng biết hạnh phúc và ái tình là cái gì.
Từ đây trở đi là lời anh Doãn:
- "Trên một chuyến tàu từ Lào Cai về Hà Nội, cách đây hai năm... Cũng như số đông thiếu niên, mỗi khi đi xe lửa, tôi dạo một lượt từ toa đầu đến toa cuối cùng với cái hy vọng trông thấy một mỹ nhân để mình bắt chuyện làm quen, ngỡ hầu quên được cái vô vị của mấy trăm cây số phong cảnh với những tiếng bánh xe xình xịch nghiến trên đường sắt nó khiến ta mệt mỏi vô cùng, buồn ngủ vô cùng. Cả chuyến hỏa xa ấy, than ôi, chỉ có một người đàn bà là đẹp nhưng mà lại có chồng cùng đi theo. Còn thì phần nhiều là dân quê cả.
Tôi chán nản kiếm một chỗ rộng rãi, rồi thấy... nhà tôi trước mặt tôi. Hồi ấy, người đàn bà ấy còn ăn mặc lối cổ: khăn nhung, giầy láng kiểu mõm nhái, có đuôi gà, và có ba trăm hột vàng ở cổ. Cái "nhan sắc" của người ấy thì như anh vừa trông thấy đó, ta chẳng rườm lời mà làm gì. Tôi nghĩ đến đám phụ nữ có nhan sắc, được đời kính trọng... Tôi đã bảo tôi: "Tạo hóa thật là bất công. Những người xấu như thế này, hẳn sẽ không bao giờ được hưởng ái tình. Xưa nay ta yêu người đẹp đã nhiều để mà nhận thấy rằng sự yêu đương của họ cũng nhiều khi vô vị lắm. Âu là ta thử yêu một người xấu xí xem ra làm sao!" Thế là tôi đến ngồi bên cạnh người ấy, lân la hỏi chuyện.
Sau nửa tiếng đồng hồ, tôi được biết rằng đó là con gái một nhà buôn bán khá giầu ở Lào Cai. Cô ả có việc về Hà Nội chừng độ một tuần lễ, và khi về Hà thành, sẽ đến ở nhà một người trong họ. Như thế, nếu chúng tôi muốn có một cuộc giăng hoa, cô ả rất có đủ thời gian! Và tôi lại nhận thấy ở người đàn bà này một sự thông minh, một sự từng trải, nhiều duyên thầm, mà tôi chưa từng thấy ở những phụ nữ có nhan sắc. Ðó không phải là điều quái lạ. Người con gái đẹp chỉ trông thấy chung quanh mình những kẻ nịnh hót mà thôi. Vì anh nào cũng hiếu sắc nên bọn đàn ông chúng ta thường thấy những đức tính ở bọn gái đẹp mà chính họ không có. Cho nên chúng ta hết sức chiều đãi họ, nâng niu họ, khiến họ chẳng phải chịu khó nhọc mảy may trong mọi cuộc phấn đấu với đời, thành ra người đàn bà đẹp dễ trở nên quá đỗi kiêu ngạo, tưởng mình không có điều gì khuyết điểm nữa; do đó, những cái xấu, những cái khó chịu, mà chúng ta thấy ở những mỹ nhân, những khi ta thấy chán yêu. Trái lại, người đàn bà xấu bao giờ cũng giữ gìn và cư xử thế nào để cho một khi người đàn ông nào đã đem lòng yêu mình thì không thể nào chán được mình nữa. Vợ tôi chính thuộc vào hạng đàn bà xấu ấy. Cho nên, về sau, tôi được hưởng của vợ tôi những sự săn sóc mà tôi đã phải đem cung cho bọn gái đẹp, những khi tôi yêu... Xưa kia tôi đã thấy cái thú vị trong sự nâng niu đàn bà thì, bây giờ, được đàn bà nâng niu, tôi càng thấy nhiều thú vị hơn nữa.
"Hôm ấy, về đến Hà thành, chúng tôi đã cùng nhau ăn một bữa cơm ở một khách sạn, điều ấy dĩ nhiên! Rồi chúng tôi lại vào một căn phòng trọ nữa, than ôi, điều ấy cũng lại dĩ nhiên! Và, khi thấy người đàn bà ấy đã dâng cái tân tiết cho tôi, tôi cảm động lắm. Tôi đã hôn đi hôn lại vào cái mặt xấu xí ấy mấy lần, với một vài ngấn lệ ở mặt tôi. Và sự xúc cảm mạnh ấy không đủ ngăn chúng tôi yêu nhau hai ngày liền nữa.
"Lúc đầu, tôi không hứa si tình cũng như không hứa hôn sự. Cô ả đã yêu tôi trong một cơn rạo rực của xác thịt, cũng như tôi, tôi đã yêu cô ta sau một phút điên dại, vô lý của linh hồn. Cho nên, trước khi chia tay nhau, tôi hỏi: "Này em, nếu rồi em... có mang thì làm thế nào?" Tôi đã có thể hỏi một câu sống sượng như thế như hỏi một ả giang hồ, hay một "chị em" dễ dãi, vì sự thực, một người xấu, chẳng khi nào được hưởng cái ái tình thành thực của tôi. Nghe thấy thế, cô ả bỗng tái xám cả mặt. Thì ra cô ả không hề nghĩ đến sự có mang! Nhớ ra thì quá muộn! Cái ấy không lạ gì: thời buổi nào cũng có hàng mấy triệu phụ nữ quên rằng có thể có mang được, sau khi đã phó thác thân thể mình cho một anh đàn ông.
"Những giọt nước mắt bắt đầu chảy ra. Cô ta bưng mặt khóc, khóc, và khóc... Sau cùng, chỉ biết thổn thức nói: "Nếu thế thì... họ hàng sỉ vả, bố mẹ đuổi khỏi nhà, rồi nhục nhã, rồi khổ, phải, rồi khổ!" Thì ra cô nàng nhũn nhặn đến bực không dám có hy vọng lấy tôi nữa, và cũng không dám thử hỏi một câu để có được một hy vọng bâng quơ nguy hiểm ấy nữa. Cô biết mình xấu xí, không đáng lấy một người như tôi, và không dám cả nghĩ đến sự đòi bồi thường sau cái thiệt hại do tôi gây ra. Dễ thường cô ả coi cái phút ngứa ngáy xác thịt của tôi như là một thứ đặc ân cho mình nữa. Tôi lại hỏi: "Sao lại tin tôi đến như thế? Tôi đã là đứa không ra gì, cô cũng lại hư đốn nữa!". Cô ả thở dài, đáp: "Nếu không yêu anh thì thôi chứ cả một đời em, chắc rồi cũng chẳng ai thèm yêu đến thứ em. Thôi thì thà rằng sẽ phải khổ một đời vì đã quá yêu một phút!". Tôi đã cảm động về sự thành thực ấy một cách rất sâu xa như là chưa bao giờ tôi cảm động đến thế.
"Cuộc ái ân chốc lát ấy, rồi sau tôi cũng quên đi, và chỉ thỉnh thoảng nó mới lại đến ám ảnh tôi như một chút ký ức nhỏ mọn trong một giây phút mà thôi. Tôi tưởng không bao giờ còn gặp cô gái Lào Cai ấy nữa.
"Năm tháng sau, một hôm tôi nhận được một phong thư như thế này: "Thưa ông, tôi chờ ông ở hiệu cao lâu Ðông Hưng, vào khoảng 11 giờ ngày 20. Tính mệnh tôi ở trong tay ông, xin ông bỏ chút thời giờ quý hóa đến cùng một kẻ khốn khổ". Tôi ngạc nhiên lắm, vì tôi không nhớ đến cô gái Lào Cai nữa. Nhất là cách xưng hô ông tôi lại làm cho tôi tưởng người viết thư là đàn ông. Tôi rùng mình, nhớ đến những ông bạn cũ nghiện hút muốn làm tiền mình. Rồi tôi đến chỗ hẹn.
"Ðó là cô gái Lào Cai!
"Cô nàng lúc ấy đã có một cái bụng to một cách đáng kính trọng lắm. Chúng tôi vào ngồi trong quầy. Cô ả chỉ dám gọi tôi là ông chứ không dám xưng hô anh em, như hồi xưa".
"Cô ta nước mắt chan hòa, nói ấp úng trong khi tôi ngồi thản nhiên cắn hạt dưa. Cô ta vẫn nhũn như trước, vẫn sợ hãi tôi như trước, vẫn ôm một mối tình vô hy vọng như trước: "Thưa ông, nếu ông là người đại lượng thì ông nên cứu sống lấy tôi, vì đứa con bé trong bụng này chính là con ông... Nếu không tôi phải tự tử, đứa bé phải chết, vì bố mẹ tôi đã biết, họ hàng tôi sắp biết, mà nếu họ hàng biết thì tôi không sống được nữa, vì bố mẹ tôi nghiêm lắm! Xin ông làm phúc cứu lấy một người khốn khổ nhất đời! Làm lẽ thứ mười, tôi cũng xin vâng, miễn là họ hàng nhà tôi được nhận trầu cau của ông! Vả lại tôi cũng không đến nỗi ăn hại ông...".
"Tôi xua tay, chán nản. Tôi nghĩ: Hạng gái hư hỏng ấy thì mình lấy sao được! Nó ngủ được với mình thì nó sẽ cũng ngủ được với thằng khác! Mình không làm nó chửa hoang thì thiên hạ cũng sẽ làm cho nó chửa hoang! Thế thôi!
"Nhưng đứa bé trong bụng... con tôi! Cứ như sự kêu khóc ấy, cứ như lòng thành thực ấy, người đàn bà này mà nói đến sự tự tử đó chẳng là lời dọa nạt! Do thế, tôi nghĩ lại... Nếu ai cũng lý luận như tôi thì trong đời chẳng còn ai lấy nhau vì tình, chẳng làm gì có những cuộc tiền dâm hậu thú nữa, bởi có kẻ bạc tình nào cũng đã lý luận y như tôi! Phải chăng người đàn bà nào đã quá tin một anh đàn ông không thể khác được! Trong một phút mà linh trí tôi sáng suốt khác thường, tôi đã thấy mình hèn mạt, ích kỷ, khốn nạn! Tuy nhiên, tôi còn thử thách: "Có chắc rằng đứa bé ấy chính là con tôi không?" Ðến đây, cô ả nức nở, buông xuôi hai tay, hoàn toàn thất vọng: "Giời ơi, nếu ông hỏi thế thì thôi, tôi chỉ còn có một cách là tự tử!". Cái thành thực ấy khiến tôi không còn phải nghi ngờ lôi thôi.
"Tôi còn hỏi vặn nhiều câu, nhưng lần nào, cô ả dại dột ấy cũng chỉ tỏ ra là người thành thực cực điểm.
"Ấy thế là... một người cầu kỳ, khó tính như tôi, đã cam đoan rằng nếu không lấy được cô gái đẹp nhất Hà thành thì xin thề là sẽ không lấy vợ, mà tôi, sau cùng đi lấy phải cô gái xấu xí nhất Bắc kỳ!"
Câu chuyện nói xong thì bữa rượu cũng vừa tàn. Chúng tôi bước ra, tôi để đi đến tòa xứ Hà Ðông, Doãn để đi đến nhà ông cậu vợ mà vợ anh chờ anh tại đó.
Tôi an ủi:
- Thôi, đó cũng là duyên số, không cần thiết phải lấy vợ đẹp, chỉ cần có nhân ngãi đẹp. Vả lại, như anh đã nói, đáng lẽ anh phải nâng niu vợ thì mới thấy thú vị, thì bây giờ anh lại được thấy cái thú vị ở chỗ vợ anh nâng niu anh. Thế cũng đủ là hạnh phúc.
Nhưng anh Doãn bĩu mồm:
- Bẩm không ạ! Thưa ông, nó chỉ chiều đãi tôi có mấy tháng đầu mà thôi. Bây giờ, có con với nhau rồi, vợ tôi chẳng cần gì nữa. Nó đã bắt đầu nặng lời với tôi, nghe chị em ăn mặc rất lố lăng, và ghen lắm, ồ! Ghen lắm, hễ tôi đi chơi khuya là thế nào cũng đập phá đồ đạc chạy ra đường kêu cứu "ông bà hàng phố", ăn ở rõ ra một vị đức phụ chính thất có nhiều quyền và biết tự trọng!
From: Dzung T <dzungthedinh@yahoo.com>
To: ""Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com"" <Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com>; ""exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com"" <exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com>
Sent: Monday, 23 January 2012 8:38 PM
Subject: [Exryu-ww-Forum] Trùm FBI - Một ác thần cần thiết ?
J. Edgar Hoover : sinh thời vĩ nhân, tạ thế hung thần
Ông Hoover và phụ tá Clyde Tolson trong bộ phim J.Edgar (DR)
Trong vòng gần nửa thế kỷ, từ 1924 cho đến 1972, John Edgar Hoover là giám đốc của Cục điều tra Liên bang Mỹ FBI. Nói cách khác, sinh thời, ông được xem là người có nhiều uy quyền nhất nước Mỹ. Nhưng đời tư của ông vẫn còn nằm trong vòng bí ẩn. Qua bộ phim "J. Edgar", đạo diễn kỳ cựu Clint Eastwood tìm cách giải mã hiện tượng Hoover.
Ngược dòng thời gian, chúng ta thử trở về năm 1972. Vào năm mà ông Hoover qua đời, thì diễn viên Clint Eastwood đang thành công trên màn ảnh lớn với loạt phim thám tử điều tra Dirty Harry. Vào thời đó, Clint Eastwood bị báo chí chỉ trích khá nhiều khi ông vào vai thám tử Harry Calahan, một nhân vật bất trị với giọng điệu ngông cuồng xấc xược, có những lời tuyên bố bị cho là phản động, không phải đạo về phụ nữ, về người da màu và giới đồng tính.
Nếu như vào thời điểm đó, bạn nói với mọi người rằng : 40 năm sau, diễn viên Clint Eastwod trở thành một trong những nhà đạo diễn lão luyện nhất nước Mỹ, và bộ phim mới của ông nói về đời tư cũng như định hướng đồng tính của ông trùm FBI. Hẳn chắc là vào lúc đó, chẳng có ai sẽ tin bạn. Nhưng qua sự đối chiếu này, ta có thể hiểu được một phần : động lực nào đã thôi thúc Eastwood quay một bộ phim về Hoover, vì hơn ai hết đạo diễn này thừa hiểu rằng sự khác biệt giữa bí mật đời tư và hình ảnh của một nhân vật công chúng là cả một trời một vực.
Bộ phim J. Edgar bắt đầu với màn quay toàn cảnh của tòa trụ sở FBI tại thủ đô Washington DC. Nhân vật Hoover (do Leonardo DiCaprio thủ vai) đang đọc một bài diễn văn với giọng điệu lạnh lùng để giải thích vì sao tổ chức SCLC (Southern Christian Leadership Conference) đe dọa trực tiếp đến nền an ninh quốc gia. Trong thực tế, tổ chức này do mục sư Tin lành Martin Luther King lãnh đạo, nhưng để triệt hạ cánh chim đầu đàn của phong trào đòi quyền công dân cho người Mỹ da đen, giám đốc FBI không ngần ngại liệt tổ chức này vào thành phần cực tả, và quy chụp các tội như khuynh đảo trật tự công cộng, phá hoại an ninh quốc gia.
Những màn quay kế tiếp cho thấy một nhân vật Hoover về già, ông đọc cho các nhân viên cấp dưới ghi chép lại những kỷ niệm trong cuộc đời và sự nghiệp của ông. Điều đó có nghĩa là trước khi từ trần, ông trùm FBI vẫn tiếp tục dàn dựng sự nghiệp của một đời người qua quyển Hồi ký chính thức, lưu lại cho hậu thế những chi tiết, giai thoại, sự kiện qua một sự sàng lọckỹ càng. Qua thủ pháp điện ảnh này, đạo diễn Eastwood làm một công hai chuyện : thứ nhất, ông phác họa tâm lý của nhân vật Hoover, một con người mà suốt đời muốn kiểm soát toàn bộ thế giới xung quanh mình. Thứ nhì, việc đọc hồi ký cho các nhân viên ghi chép là cơ hội để cho Eastwood tự do xuôi ngược dòng ký ức, dùng thủ thuật flashback để gợi lại quá khứ của ông Hoover mà không phải nhất thiết tuân theo trình tự thời gian.
Sinh trưởng tại Washington DC (1895-1972), John Edgar Hoover xuất thân từ một gia đình sùng đạo Chúa. Ông tốt nghiệp khoa luật trường Đại học George Washington, thi đỗ bằng thạc sĩ trước khi vào làm việc cho Bộ Tư pháp Mỹ. Trong thời gian đầu, ông làm trợ lý cho bộ trưởng Tư Pháp Thomas W. Gregory. Nhiệm vụ đầu tiên mà ông Hoover được giao phó là điều hành cơ quan BOI, chuyên trách việc đăng ký toàn bộ các di dân đến từ các quốc gia bị chính quyền Washington xếp vào hàng thù nghịch với nước Mỹ. Cơ quan này sau đó được ông Hoover chấn chỉnh lại và đổi tên thành Cục điều tra liên bang Mỹ FBI.
Vĩ nhân sinh từ thời cuộc ? Dù gì đi nữa, sự nghiệp của ông Hoover thăng tiến rất nhanh, một mặt nhờ vào cái tài điều hành, mặt khác nhờ vào cái bối cảnh chính trị bất ổn của nước Mỹ vào giữa thập niên 1920. Nhiều vụ tấn công nhắm vào các quan chức cao cấp, từ bộ trưởng đến thẩm phán của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Khai thác tâm lý hoảng sợ bất an, ông Hoover khi lên làm giám đốc FBI vào năm 29 tuổi (1924) muốn lập ra bộ phận lưu giữ dấu vân tay cũng như bảng số xe hơi mở rộng trên toàn quốc, thành lập một phòng xét nghiệm pháp y với những phương pháp khoa học tối tân hiện đại nhất thời bấy giờ, đào tạo một hàng ngũ nhân viên điều tra chuyên nghiệp. Mục tiêu là để truy tìm tội phạm một cách nhanh chóng nhất. Về điểm này, có thể nói là ông Hoover có một tầm nhìn xa khác thường, một trí thông minh xuất chúng.
Nhưng khôn chưa chắc gì đã ngoan. Trong ống kính của đạo diễn Eastwood, nhân vật Hoover, nhân danh chính nghĩa bảo vệ quyền lợi đồng bào hay lợi ích quốc gia, không ngần ngại luồn lách, tự đặt mình lên trên vòng pháp luật. Cứu cánh biện minh cho phương tiện : ông Hoover lập ra một mạng lưới tình báo, lớn chưa từng thấy trong gần nửa thế kỷ điều hành. Các nhân viên FBI có thể nghe lén điện thoại, âm mưu phá hoại các tổ chức dân sự, chống phong trào đòi quyền công dân của người da đen. Những hồ sơ mật mà ông lập ra không chỉ nhắm vào các phần tử ''nguy hiểm'' mà còn liên quan đến đời tư của các gương mặt nổi tiếng hay nhân vật có quyền hành. Điều đó đủ để làm cho 8 vị tổng thống từ Coolidge, Roosevelt đến Kennedy rồi Nixon phải kinh khiếp, nể sợ nhiều hơn là thán phục ông Hoover.
Khi lập hồ sơ tối mật về quan hệ ngoại tình của phu nhân tổng thống Roosevelt hay các mối tình vụng trộm dan díu của tổng thống Kennedy, theo cách nhìn của đạo diễn Eastwood, ông Hoover chỉ muốn biết chân tướng của đối phương, làm lộ tẩy của những kẻ có thể trở thành thù nghịch. Nó tựa như một lá chủ bài, một tấm bảo bối hộ thân để răn đe, phòng hờ sự trở mặt của các nhân vật có thế lực mạnh nhất nước Mỹ. Nhưng bản thân ông Hoover có gì mà phải che giấu ?
Về điểm này, đạo diễn Clint Eastwood chọn tâm lý của nhân vật nhiều hơn là định hướng đồng tính của ông Hoover làm trọng tâm, điểm nhấn. Nhà làm phim không dùng cách minh họa trực tiếp mà lại để cho khán giả tự mình rút ra kết luận trước những tình huống trong phim. Hai nhân vật quan trọng hàng đầu là thân mẫu của ông Hoover và phó giám đốc FBI ông Clyde Tolson, nhân vật này vừa là cánh tay phải đắc lực, vừa là người ''bạn đời'' của ông Hoover.
Bản thân ông trùm FBI không có quan hệ gần gũi với đàn bà. Người phụ nữ duy nhất trong đời được ông Hoover sung bái tôn kính chính là thân mẫu của ông. Trong phim, bà Anna Marie (do nữ diễn viên Judi Dench thủ vai), che chở săn sóc cho con trai đến nổi, ông Hoover suốt đời sẽ sống trong vạt áo của mẹ. Khi bà qua đời, cảnh phim cho thấy ông lấy quần áo cũ của người mẹ quá cố để mặc. Tầm ảnh hưởng của bà mẹ lớn đến mức không thể nào có một hình bóng ngời đàn bà nào khác trong tâm trí của ông Hoover.
Nhân vật thứ nhì là Clyde Tolson (do Armie Hammer thủ diễn). Hai người có quan hệ với nhau trong hơn 40 năm. Nhưng cho tới giờ này, do chưa có bằng chứng cụ thể, cho nên không ai có thể quả quyết được điều gì. Trong phim, đạo diễn Clint Eastwood thiên về giả thuyết đáng tin cậy nhất khi tạo dựng trên màn ảnh lớn mối tình giữa hai nhân vật Hoover và Tolson. Một cách chính thức, giám đốc FBI ngoài đời không có vợ vì ông đã ''thành hôn'' với nghề nghiệp. Nhưng theo cách đọc của đạo diễn Eastwood, nhân vật Hoover muốn che giấu định hướng giới tính của mình.
Mỗi lần xuất hiện trước công chúng, ông Hoover dàn dựng cảnh những người đẹp xuất hiện bên cạnh ông như Shirley Temple, Ginger Rogers. Có một thời báo chí nhắc nhở đến nhiều mối tình giữa ông Hoover với nữ diễn viên Dorothy Lamour. Mặt khác, ông Hoover tìm cách đánh lạc hướng dư luận vì ông là người đầu tiên ủng hộ việc trấn áp giới đồng tính. Vào thời ông nắm quyền lãnh đạo FBI, hàng trăm người đồng tính làm việc cho cơ quan nhà nước Mỹ đã bị sa thải. Ông cũng đã ra nhiều quy định khắt khe nghiêm ngặt đối với toàn bộ các nhân viên FBI. Nhưng phần lớn cũng vì ông không muốn ai biết được những bí mật về bản thân ông. Nếu để lộ thì có lẽ uy tín cũng như cơ nghiệp của ông trùm FBI coi như là tiêu tan.
Nhìn chung, bộ phim J. Edgar của Clint Eastwood xoáy vào nội tâm của nhân vật Hoover nhiều hơn là tiết lộ bí mật đời tư của ông. Theo góc nhìn của nhà đạo diễn, Hoover chỉ quan tâm đến quyền lực, theo sự thúc giục của thân mẫu. Thời còn nhỏ, ông bị tật nói lắp, để làm hài lòng người mẹ, ông sẽ học cách chữa chứng cà lâm. Cũng vì người mẹ mà ông chối bỏ định hướng giới tính của mình, và để chiều lòng thân mẫu, từng bước một, ông đi lên theo đà thăng tiến xã hội.
Về quan hệ đồng tính giữa hai nhân vật Hoover và Tolson, theo cách nhìn của Eastwood thì đó là một mối tình đơn phương. Bởi vì đạo diễn này quan niệm rằng đối với một người ở trên tột đỉnh quyền lực như ông Hoover, thì không có cách nào khác là phải cô đơn, hiểu theo nghĩa không chia sẻ quyền hành, không để lộ nhược điểm, không thể tin tưởng bất kỳ ai. Quyền lực trở thành nỗi ám ảnh của một đời người, tình cảm riêng tư chỉ là tiểu tiết. Qua cách phác họa này, nhân vật của Hoover trở nên khá lạnh lùng tàn nhẫn.
Ngay từ những hình ảnh đầu, đạo diễn Eastwood đã cài thông điệp chính mà ông muốn gửi gấm đến người xem, đối chiếu những hình ảnh dàn dựng nhằm tuyên truyền về một nhân vật của công chúng với những bí mật đời tư chôn vùi giấu kín. Do là một người luôn có tâm lý bất an, cho nên trong mắt của Hoover; cả thế giới xung quanh ông lúc nào cũng tiềm tàng ẩn chứa những mối đe doạ. Nhân vật Hoover tự tạo cho mình một vương quốc riêng, nơi ông ngự trị trên đỉnh cao trong gần 50 năm, một thế giới mà ông nắm toàn bộ quyền kiểm soát, từ mỗi chi tiết điều hành cho đến cung cách làm việc của nhân viên cấp dưới.
Một khi đã đạt tới thượng tầng, thì chẳng bao giờ Hoover muốn rời bỏ quyền hành. Việc lập ra hàng loạt hồ sơ tối mật là một cách để cho ông củng cố vị thế của mình, bởi vì tất cả các vị tổng thống đều là chủ nhân tạm thời của Nhà Trắng, trong khi ông mới chính là hiện thân trường tồn của quyền hành tối cao. Nhưng có một điều nghịch lý mà đạo diễn Eastwood muốn nói lên, đó là dù có nỗ lực cách mấy, ông Hoover cũng không thể nào kiểm soát được hình ảnh do ông để lại.
Qua quyển hồi ký chính thức, ông Hoover muốn tạo dựng cho mình hình ảnh của một anh hùng lịch sử nước Mỹ. Lúc sinh tiền, ông từng chiếm ba lần trang bìa tạp chí Time và đứng hạng nhì trên danh sach các nhân vật được dư luận Mỹ yêu qúy nhất. Nhưng khi xem phim của Eastwood, ta cảm nhận được một điều : Hoover không phải là một vĩ nhân mà lại giống như một hung thần sinh từ thời cuộc.
__,_._,___
From: Dzung T <dzungthedinh@yahoo.com>
To: "Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com" <Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com>; ""exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com"" <exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com>
Sent: Tuesday, January 24, 2012 6:01 AM
Subject: [Exryu-ww-Forum] Chị Doãn-Vũ Trọng Phụng
No comments:
Post a Comment