CÂU CHUYỆN GIỮA * * * Thày Hạnh "gầy" và Thày Tiến (tức nhạc sĩ Chung-Quân). Phần Mở Đầu: Bài được trích đăng trong báo khổ nhỏ, tờ tuần san Thời-Sự phát hành tại Canada số 350, ngày 05 tháng 3 năm 2004, khởi từ trang số 113. Tựa đề bài viết: "Những cuộc trả thù tức cười" của tác-giả có bút hiệu là Đoàn-Dự (cựu HS Trung học Nguyễn Trãi, Sàigòn). Vì có đoạn viết về hai vị thầy khả kính, nên người đọc đã mạn phép tác-giả, xin nhờ anh Bùi Bảo Sơn phô biến, để các cựu HS có dịp tưởng nhớ lại mái trường xưa cùng thầy yêu và bạn mến. (Được biết thày Tiến sau khi học ở Anh về lại Việt nam có một thời gian giảng dạy tại Huế. Từ sau năm 75 thày ở cùng với mẹ già, nhà vẫn ở khu Khánh-Hội cho tới lúc chết. Thầy Hạnh "gầy" nghe nói hiện đang ở nước ngoài, có lẽ Hoa Kỳ ?) Xin cám ơn tác-giả Đoàn-Dự và bạn Đồng môn Bùi Bảo Sơn. (Nguyễn ngọc Tùng- Người chuyển bài) Trước khi kể câu chuyện thứ nhất, Đoàn-Dự tôi xin mạn phép trình bầy hầu quý bạn về cuốn phim đen trắng nhưng là phim nói đầu tiên tại Việt Nam năm 1953. Trước năm 53 thì VN chỉ có phim câm thôi, từ năm 1953 trở đi mới có phim nói.- Tại sao đang kể chuyện trả thù tôi lại nhẩy qua chuyện phim ảnh? Xin thưa, tại vì bộ phim này có liên quan đến nhân vật chính trong câu chuyện của chúng ta: nhạc sĩ Chung Quân Nguyễn Đức Tiến, tác gỉa bản nhạc "Làng tôi" nổi tiếng được nhiều người biết: "Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh, có sông sâu lơ lững vòng quanh, êm suôi về nam... Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau, bóng tre ru bên mấy hàng cau, đồng quê mơ màng...". Vâng, thưa quý bạn, cuốn phim nói đầu tiên của Việt Nam là phim Kiếp Hoa, do công ty điện ảnh kiêm tuồng cải lương Kim Chung sản xuất. Sau ngày di cư vào Nam năm 1954, đoàn Kim Chung "Tiếng Chuông Vàng Bắc Việt" không còn làm phim nữa, chỉ diễn các vở cải lương rất ăn khách tại một rạp không lấy gì là lớn lắm trên đướng Lê Lai, sau đổi sang rạp Olympic sang trọng hơn ở đường Hồng Thập Tự (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Sài Gòn). Người VN bắt đầu công việc điện ảnh từ năm 1937 với những bộ phim tất nhiên là câm và đen trắng., như Cánh Đồng Ma, Bà Đế, Trận Phong Ba...vv. Chúng ta thử xem nhận xét của nhà phê bình Lê Giang nói về các phim này trên tờ tạp chí Nghệ thuật và Tân Sinh số ra cuối tháng 11-1053 do Đoàn Dự tôi đã tìm tòi được: " Chúng ta không thể công nhận các quái thai điện ảnh Cánh Đồng Ma, Bà Đế, Trận Phong Ba... là con đẻ của nghệ thuật Thứ bẩy, bởi vì lúc đó chưa có sự hiện diện của hai nhóm điện ảnh Kim Chung và Alpha với hai bộ phim Kiếp Hoa và Bến Cũ. Khi hai bộ phim này ra đời, nó thực sự chứng tỏ Nghệ thuật Thứ bẩy đã bắt đầu có mặt tại Việt Nam...". Phim Kiếp Hoa do nhóm Kim Chung thực hiện tại Hà Nội, phim Bến Cũ do nhóm Alpha của ông Thái Thúc Nha thực hiện tại Sài Gòn, và cả hai đều cùng làm xong vào khoảng tháng 9 năm 1953. Ngoài ra, trong thời gian này còn có bộ phim thứ ba là phim HAI THẾ GIỚI của ông Phạm Văn Nhận thực hiện tại Pháp, đem về chiếu tại VN nhưng chúng ta không nói đến. Bây giờ chúng ta thử xem phim Kiếp Hoa trước khi đề cập tới nhạc sĩ Chung Quân Nguyễn Đức Tiến, nhân vật chính trong câu chuyện. Phim Kiếp Hoa do ông Trần Long, giám đốc nhóm điện ảnh kiêm tuồng cải lương Kim Chung, đồng thời cũng là chồng của nghệ sĩ Kim Chung viết kịch bản. Đạo diễn là ông Doãn Hải Thanh, người Việt gốc Hoa. Các diễn viên gồm: Kim Chung, Kim Xuân (rất đẹp, em dâu Kim Chung, vợ của Tiêu Lang), Ngọc Toàn, Phúc Lai, Tiền Phong, Tuấn Sử và nhiều nghệ sĩ khác. .... Như phần trên chúng tôi đã nói, ta thấy ông Trần Long giám đốc đoàn Kim Chung là người rất giỏi, tự viết kịch bản và giám bỏ tiền ra thay đổi máy móc, làm ăn tới nơi tới chốn rất có phương pháp nên mới thu lời dữ dội...Ngoài ra, ông biết một bộ phim thì cần phải có nhạc nền và bản nhạc này phải thật giá trị. Bởi vậy ông tung tiền ra, đăng trên báo chí treo giải thưởng rất lớn mời các nhạc sĩ tham dự cuộc thi sáng tác nhạc chủ yếu cho phim. Các nhạc sĩ "bậc thầy" nổi tiếng thời đó đua nhau sáng tác, gưỉ về tham dự. Cậu Tiến cũng dự với bản "LÀNG TÔI" như đã nói trên. Tiết điệu bản nhạc êm đềm, bình dị, đặc biệt là rất dễ hát, dễ thuộc nhưng hễ hát lên là người ta cảm thấy có một cái gì đó thiết tha, trìu mến khó phân tích nổi. Sau này bản "Lòng mẹ" của cố nhạc sĩ Y Vân cũng vậy, rất dễ thấm vào lòng người. Cậu Nguyễn Đức Tiến đoạt giải, vượt luôn các thầy. "LÀNG TÔI" được hát và làm nhạc nền cho phim KIẾP HOA. Kiếp Hoa nổi tiếng thì nó cũng nổi tiếng, cả nước đều biết. Nhưng vì khi tham dự cậu chưa lấy bút danh Chung Quân, báo chí đăng tin để tên Nguyễn Đức Tiến, nên sau này khi bản nhạc được in ra và phát hành, mặc dầu đề bút danh Chung Quân nhưng mọi người quen miệng bèn gọi luôn là Chung Quân Nguyễn Đức Tiến. Hai năm sau, 1954, thầy giáo Chung Quân 18 tuổi, di cư vào Nam , gia đình ở bên Khánh Hội. Rồi các trường Chu-Văn-An Hà Nội, Nguyễn-Trãi Hải Phòng cũng lục tục di cư vào Nam. Do danh tiếng của mình cộng thêm các giấy tờ đã học sư phạm chuyên ngành về Nhạc, vị nhạc sĩ trẻ tuổi Chung Quân được Bộ Quốc-Gia Giáo Dục ưu đãi, cho dạy môn nhạc tại hai trường đó, ăn lương theo ngạch giáo-sư trung học đệ nhất cấp tương đối là lớn. Trên thực tế, về văn hóa ông chỉ mới có bằng trung-học, học trường sư phạm theo ngạch hương sư. Cái khúc mắc là ở chỗ đó. * * * Thầy Chung Quân dáng dong dỏng cao, nước da trắng, luôn luôn đeo kính mát gọng vàng và rất đẹp trai. Thầy tính khoan, mực thước và rất nghiêm nghị, ít khi người ta thấy thầy cười thành tiếng. Các giáo sư thời ấy đi dạy ăn mặc rất sang trọng. Trời nắng chang chang đổ mồ hôi nhưng cụ Hoàng văn việt hiệu trưởng trường Chu-Văn-An hoặc cụ Vũ Đức Thận, hiệu trưởng trường Nguyễn-Trãi vẫn luôn luôn mặc com-lê trắng, mang cravát, còn các giáo sư và các vị giám thị cũng mang cravát, mặc áo sơ mi dài tay cài nút măng-sét. Trông các thầy "oai" không thể tưởng được. Chúng tôi thường gọi thầy hiệu-trưởng và "ông già Nô-en" tổng giám-thị bằng cụ, ít gọi bằng thầy, chỉ khi nào ở trước mặt các cụ, phải thưa thốt điều gì thì mới gọi bằng thầy và sợ các thầy đến chết đi được. Trong các giáo-sư, người ăn mặc đẹp nhất và sang trọng nhất và đúng mốt nhất vẫn là thầy Chung-Quân. Thầy ăn nói nhỏ nhẹ nhưng hát rất hay, mỗi khi thầy hát làm mẫu, cả lớp chúng tôi đều lắng tai nghe và mong thầy hát thật nhiều để chúng tôi được thưởng thức. Chữ thầy viết rất hoa mỹ, kiểu cách và đẹp như cắt- suốt đời tôi chưa từng thấy ai viết chữ đẹp như vậy. Ngoài ra, một điều lạ lùng là khi ghi các dòng nhạc lên bảng cho học sinh chép, thầy cầm phấn vạch từ đầu bên kia bảng sang bên này bảng thẳng tắp và đều đặn nhau không cần dùng thước. Sau này khi đã trở thành giáo viên (trước 75 gọi là giáo sư), tôi vẽ các hình tròn, hình parabol, hình hyperbol cũng rất nhanh và đẹp, học sinh phục lăn nhưng không có cách chi vẽ nổi các đường thẳng không cần dùng thước như vậy. Hồi đó có lần chúng tôi hỏi, thầy trả lời nho nhỏ như không để ý :" Làm nhiều thì quen tay vậy thôi". Nói chun giữa thầy và trò luôn luôn có sự xa cách. Tuy dạy nhưng hình như thầy không biết tên chúng tôi, không biết tên bất cứ một học sinh nào cả vì dạy quá nhiều lớp. Hồi đó học-sinh đệ nhất cấp ( từ Đệ Thất đến Đệ Tứ tức lớp 9 bây giờ) phải học các môn phụ như nhạc, vẽ, thể dục, Hán văn...vv. Mỗi lớp mỗi tuần một giờ nhạc đều do thầy dạy và học sinh hết sức kính trọng thầy. Tôi thi vào lớp Đệ Thất trường Nguyễn-trãi năm 1957, đậu hạng nhì trong danh sách thí sinh trúng tuyển nên khi vào học được các bạn trong lớp bầu làm trưởng ban học tập kiêm ban báo chí & văn nghệ. Trường Nguyễn-trãi lúc đó ở số 94 đường Phan Đình Phùng Đa-kao, sau này mới xây trường mới sang bên Khánh-Hội. Chúng tôi học buổi chiều vì buổi sáng do học-sinh trường Nam tiểu học Đa-kao học. Trưởng ban báo chí & văn nghệ không phải làm gì cả, mỗi năm chỉ thúc đẩy các bạn làm bích báo một lần vào dịp Tết mà thôi. Năm sau, niên khóa 1958-59 tôi lên Đệ Lục và vẫn được làm trưởng ban Học tập kiêm Báo chí & văn nghệ như cũ. Một buổi trưa, sắp được nghỉ Tết nên học cũng ít, tôi đến trường sớm để lên phòng giáo-sư lấy tờ bích báo lớp đã làm xong, đang chờ giáo sư hướng dẫn nộp lên cụ hiệu-trưởng xem qua, đóng dấu, sẽ đem xuống lớp treo lên trên tường cho các bạn coi. Cụ hiệu trưởng có lẽ chưa đến nhưng tôi thấy chiếc xe Lambretta của thầy Tô Đình Hiền dựng ở cửa. Vậy là thầy Hiền đã tới rồi, có lẽ thầy đã nộp tờ bích báo lên cụ hiệu trưởng. Tôi đang dụ dự, định vào hỏi thầy Hiền thì bỗng nghe có tiếng đập bàn và tiếng la mắng rất lớn: --" Đừng có láo! Anh đừng tưởng rằng được ngồi cùng bàn với tôi là anh đã ngang hàng với tôi...". Đó là giọng thầy Hà Đạo Hạnh, giáo-sư Toán trong trường. Thầy Hạnh lúc ấy cũng còn trẻ, chỉ độ 23- 24 nhưng rất kiêu. Nghe nói thầy đậu cử nhân Toán năm 22 tuổi, vậy là giỏi lắm. Sinh-viên bây giờ đậu cử nhân lúc 22 tuổi là chuyện thường, còn thời đó việc học rất phức tạp, ở ngoài Bắc cuộc sống lao đao, học tiếng Pháp do các giáo-sư Pháp dạy, đậu được cử nhân nhất là cử nhân Toán không phải chuyện dễ, bởi vậy thầy "hét ra lửa" thì cũng đúng thôi. Chúng tôi sợ thầy lắm. Trong các giờ dạy thầy thường la mắng và cho zê-rô. Hơi tí thì thầy cho zê-rô, mà hễ đã bị zê-rô là thế nào chiều thứ bẩy cũng bị "ông già Nô-en" tổng giám-thị xách cuốn sổ bìa đen xuống lớp "tặng quà" đọc tên đi công-si, tức phạt cấm túc vào sáng Chúa nhật. Học sinh nào vắng mặt, không đi sẽ bị phạt gấp đôi. Ba lần công-si sẽ bị đưa ra hội đồng kỷ luật. --" Nên nhớ anh chỉ là một thằng hương sư quèn, giáo học bổ túc mới Diplômé. Tôi không thiếu gì học trò cũng Diplômé như anh...vv". Thầy ngừng lại. Có giọng nho nhỏ hỏi lại: --" Anh nói hết chưa? Nếu anh nói hết thì tôi sẽ nói". Đó là giọng thầy Chung-Quân. Mọi người im lặng. Thầy tiếp: --" Ở trường này hay bất cứ một trường nào khác giáo sư Hà Đạo Hạnh cũng oai lắm, đáng hãnh diện lắm, một hương sư quèn như Nguyễn Đức Tiến chẳng là cái gì cả. Nhưng ra bên ngoài, trước mặt công chúng, nếu có người giới thiệu đây là giáo sư Hà Đạo Hạnh còn đây là nhạc sĩ Chung-Quân, lúc ấy mọi người chỉ biết có tôi thôi, chẳng ai thèm biết anh là ai. Gía trị của chúng ta là ở chỗ đó". Các thầy khác can ngăn: --" Thôi mà, đồng nghiệp với nhau cả mà...". Thầy Hạnh hậm hực: --" Không ai đồng nghiệp với hạng đó". Thầy Tiến nói: --" Tôi cũng không cần phải là đồng nghiệp với anh. Anh không nên tự mãn, nên nhớ rằng cái gì Hà Đạo Hạnh làm được thì Nguyễn Đức Tiến cũng làm được. Ngược lại, cái gì Nguyễn Đức Tiến làm được thì mòn đời Hà Đạo Hạnh cũng chưa chắc đã làm nổi". Tôi đang tò mò không hiểu cái gì làm được với cái gì không làm được là "cái gì" và tại sao hai thầy lại phải cãi nhau như vậy, thì bỗng có ai nắm cổ tôi, bàn tay rất mềm và mập. Tôi quay lại. Đó là thầy Thịnh-Del, giáo sư hội-họa. Thầy đã lớn tuổi, thân hình thấp lùn, giọng nói lúc nào cũng ề à chậm chạp và rè như tiếng gáo bể. Nghe nói trước kia thầy học hội họa ở bên La-Mã, tốt nghiệp thủ khoa nên tên có chữ " Del " đi kèm theo sau: Nguyễn Văn Thịnh ' Del ". ("Del" tiếng La-Tinh đọc là "đen", viết tắt của chữ "Delphinium", tên một loại cây dùng làm vòng nguyệt quế đội trên đầu người đậu thủ-khoa). Bàn tay ngắn ngủn mập ú của thầy kéo người tôi về phía đằng sau, phát vào mông tôi và la nho nhỏ: "Về lớp, coi cái gì !..". Trong lúc phát, thầy buông tay ra, vậy là tôi bèn chuồn thẳng, không giám ở lại giải thích rằng tôi lên lấy bích báo, không phải cố ý nghe lén. Về lớp, tôi giữ kín không tiết lộ chuyện hai thầy xích mích. Tôi hiểu chuyện này không nên nói ra. Ấy vậy mà rồi các bạn trong lớp cũng biết. Chỉ mấy hôm sau Nguyễn Toàn Thắng nhà cũng ở bên Khánh-Hội gần nhà thầy Tiến, hỏi tôi: "Trưa hôm nọ mày lên lấy tờ bích-báo có thấy ông Hạnh với ông Tiến cãi nhau không?". "Không". " Thế sao có đứa bảo nó trông thấy mày dứng núp bên ngoài nghe lén, bị ông Thịnh-Đen đá đít mấy cái đuổi về lớp? ". "Thằng đó nói tầm bậy tầm bạ chứ ông Thịnh-Đen ỳ à ỳ ạch, đá tao sao nổi". Đứa bạn bèn kể cho tôi nghe chuyện hai thầy cãi lộn và thầy Hạnh mắng thầy Chung-Quân là đồ hương-sư quèn mới Diplômé, nhưng lý do tại sao hai thầy cãi nhau thì chính nó cũng không biết. Dần dần tin đồn lan ra, cả trường đều biết. ...... ...đậu xong Tú-Tài II, tôi thi vào Đại học sư-phạm, sau đó tốt nghiệp, được bổ đi dạy học ở tỉnh. Thỉnh thoảng tôi mới có dịp về Sài Gòn nghỉ Tết hoặc đi coi thi, chấm thi nên ít biết tin tức về các thầy cũ. Nghe nói Nguyễn-Trãi đã đổi sang bên Khánh-Hội, do thầy Hà Đạo Hạnh làm hiệu-trưởng, còn thầy Chung-Quân thì đi học lại từ lớp Đệ Tam, đã đậu Cử nhân văn-chương và đang làm luận án Tiến-sĩ ở đại-học Văn-khoa. Tôi rất ngạc nhiên. Muốn học Tiến-sĩ phải có cao-học (bây giờ gọi là thạc-sĩ), như vậy là thầy đã đậu cao-học. Ghê thật, tôi học hành không đến nỗi dở mà kiếm được cái bằng Cử-nhân còn thấy trần ai huống chi thầy, đã thôi học từ lâu, học lại rất khó. Tự nhiên tôi nhớ tới lời thầy nói: "Cái gì Hà Đạo Hạnh làm được thì Nguyễn Đức Tiến cũng làm được, cái gì Nguyễn Đức Tiến làm được mòn đời Hà Đạo Hạnh chưa chắc đã làm nổi". Thầy học để trả thù thầy Hạnh chăng? hay muốn chứng tỏ giá trị của mình? Dù sao tôi thấy cũng rất thán phục. Hồi ấy tôi vừa đi dạy vừa viết tiểu-thuyết cho tờ Tự-do và tờ Màn ảnh. Một hôm, lên tòa soạn kiếm mấy số báo cũ bị thiếu để đem về cắt ra, đưa cho nhà xuất bản đem đi kiểm duyệt trước khi in thành sách, tôi bỗng để ý thấy một cái tin nho nhỏ đăng trên trang 4: thầy Nguyễn Đức Tiến đã được học bổng sanh Anh du học. Tôi lại ngạc nhiên gần như không giám tin ở mắt mình. Thầy đậu tiến-sĩ văn-chương Việt nam, tại sao lại được học bổng du học bên Anh? Giữa văn chương Việt nam và văn chương Anh không có gì liên quan cả. Bẵng đi một thời gian rất lâu, một người bạn ở Nguyễn Trãi ngày trước cho tôi biết thầy Hà Đạo Hạnh bây giờ được chuyển sang làm hiệu-trưởng trường Văn-hóa quân-đội, đeo lon Thiếu tá, đi xe jeep có tài xế lái oai lắm. "Còn ông Chung-Quân thì tức cười cậu ạ. Đậu MA. sau đó tới Tiến sĩ văn-chương Anh xong, ông đã gửi bảo đảm tất cả các bằng cấp từ nhỏ đến lớn đã đậu đạt được về cho ông Hạnh để trả đũa việc bị ông Hạnh xỉ nhục hồi còn đi dạy". "Thế hiện nay?". "Học xong, ổng được nhà trường giữ lại mời làm giáo-sư diễn giảng trong trường nên ở lại, không về nước". * * * Sau 30-4-75, thầy Hà Đạo Hạnh không bị đi cải tạo vì không có cấp bậc chính thức trong quân-đội. Nhưng sáu năm sau, 1981, ông bị giam giữ khá lâu ở dưới Rạch-giá về tội vượt biên. Khi được tha, ông già đi nhiều và không hiểu tại sao tự nhiện theo đạo, tuần nào cũng đi lễ ở Nhà thờ Francisco Đa Kao và hoạt động rất nhiệt tình, có chân trong ban thư-ký hội-đồng giáo xứ. Nhũng lúc rảnh rỗi ông thường đến chơi thăm một người bạn ở gần nhà tôi. Một hôm tôi mời ông sang chơi. Hai thầy trò bây giờ đều đã lớn tuổi nhưng chuyện trò rất vui, coi bộ tương đắc. Tôi hỏi về chuyện xích mích ngày trước, ông mỉm cười: "Tạo hồi đó còn ít tuổi nên bồng bột, cả như bây giờ thì không thể xẩy ra như vậy". "Thưa thầy, em nghe nói sau khi du-học, thầy Tiến có gưỉ tất cả bằng cấp về cho thầy, có đúng vậy không? ". Thầy Hạnh xác nhận đúng như thế và cho tôi biết ông Tiến được đi du-học là vì ngoài bằng Tiến sĩ văn-chương ông còn có thêm bằng cử nhân Anh văn. "Ông ấy đi do bằng Cử-nhân Anh văn chứ không phải do bằng Tiến sĩ văn-chương Việt Nam ". "Thưa thầy, em hỏi thật thầy điều này. Sau khi nhận được thư bảo đảm của thầy Tiến, thầy nghĩ như thế nào? ". Thầy Hạnh đắn đo một lát, sau đó trả lời: " Kể ra lúc đầu cũng ân hận thật nhưng sau đó, nghĩ cho cùng, chính nhờ sự xích mích ông Tiến mới được như ngày nay nên mình cũng đỡ áy náy, đỡ bị dằn vặt". Thầy Hạnh có "đỡ áy náy, đỡ bị dằn vặt" thật không? Ngược lại, thầy là người rất kiêu hãnh, liệu thầy có áy náy hoặc bị dằn vặt thật không? Tôi không biết rõ điều đó. Một hôm, một ý nghĩ chợt loé sáng trong đầu óc tôi. Tôi hỏi ông Trường, nhười hàng xóm bạn của ông Hạnh rằng không hiểu tại sao đang tự nhiên ông Hạnh lại theo đạo? Ông Trương trả lời: "Nghe ổng nói ngày trước ổng có lỗi gì đó với một người bạn vậy mà...". Vâng, thưa quý bạn, theo tôi biết, ông Chung Quân có đạo. Ông Hạnh hiểu điều đó nên theo đạo để...chuộc lỗi với bạn. Như vậy đúng là ông có bị dằn vặt thật. // ĐOÀN DỰ |
__,_._,___
From: Bu`i Ba?o So+n <sonbui@yahoo.com>
To:
Sent: Tuesday, November 1, 2011 2:31 PM
Subject: [Exryu-ww-Forum] Thày Hạnh "gầy" và Thày Tiến (tức nhạc sĩ Chung-Quân).
Sent: Tuesday, November 1, 2011 2:31 PM
Subject: [Exryu-ww-Forum] Thày Hạnh "gầy" và Thày Tiến (tức nhạc sĩ Chung-Quân).
No comments:
Post a Comment