Đây là một chuyện thật trong trại tù miền Bắc: ba con trâu được đăt tên ba vị Tổng thống Hoa kỳ là Kennedy, Johnson va Nixon... Mời các bạn xem con Johnson chết như thế nào trong dịp Tết lạnh buốt da miền Bắc XHCN....trong truyện "Bạn Trâu" cuả tác giả letamanh
Bạn Trâu!
Những ngày tháng chạp hàng năm là chúng ta được thấy nhan nhản ngoài Bolsa, các quày sách trưng bày báo xuân đủ loại. Mỗi tờ báo hàng ngày hay hàng tuần, phát hành bằng tiếng Việt, đến cuối năm là tập trung sức vào một tờ Xuân để làm dáng và cũng để quảng cáo cho thương vụ văn hoá mà họ đang phụ trách! Năm nay hình dáng con trâu được đưa lên làm đề tài biểu hiện một “nhiệm kỳ” Trâu trong vòng một năm trời! Với hình dáng nặng nề, sừng gạt dềnh dàng nhưng hiền lành và chịu đựng cuả các bạn Trâu bò, năm nay hưá hẹn một năm “cày” mệt nghĩ và cũng “chậm chạp” như chàng Trâu với dáng nhàn hạ nằm nhai lại…!
Năm 2009, nếu tính qua năm âm lịch, là năm con trâu - Kỹ Sửu! Trong mười hai con giáp, con trâu được người Á Đông nói chung, Việt Nam ta nói riêng, vô cùng quí mến. Trâu là con vật không thể không có trong bất cứ gia đình nào sống về nghề nông từ cổ đại đến bây giờ. Nói rộng ra, họ nhà nhai lại – Trâu, bò - đều là những gia súc quí giá của nhà nông! Hình ảnh con trâu và cái cày gợi ta nhớ thời vàng son “trên đồng cạn dưới đồng sâu”; bóng dáng chiếc xe trâu xe bò hay dùng sức mạnh cuả chúng vào những việc mà con người yếu đưối không đảm trách được là một quá trình tiến hoá lâu đời. Quả thật kể từ khai thiên lập địa, con người đã biết lợi dụng trí thông minh cuả mình để huấn luyện và điều khiển loài vật, dùng chúng như là phương tiện cải thiện cuộc sống cho loài nguời.
Bóng dáng anh chàng Trâu trong văn học dân gian Việt cũng đậm nét, tiêu biểu cho sự nghiệp nhà nông và các dân tộc chưộng nghề Nông như Việt Nam ta! Ở nộng thôn Việt, nguời ta lấy hình ảnh con trâu cỏng chú mục đồng trên lưng với tiếng sáo diều trên cánh đồng lúa vàng bao la…là hạnh phúc, là sung túc, là thanh bình…! Ca dao tục ngữ Việt cũng bàng bạc đâu đó hình ảnh thân thương với cái dáng nặng nề cuả người bạn trung thành lúc nào cũng có mặt với con người:
Trâu ơi ta bảo trâu nầy
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cái cày vốn nghiệp nông gia
Trâu đây ta đấy ai mà quản công
Bao giờ ngọn lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
Đôi khi người còn tôn bạn trâu lên hàng quan trọng trong sự nghiệp của mình: “Sai con toán bán con trâu” là một câu nhắc nhở người nông dân mỗi khi tính toán không đúng thì việc bán trâu là tai họa kinh khũng. Mà nghĩ cho cùng, cả mấy anh chàng làm nghề buôn bán hay các nghề khác đều phải thuộc lòng câu trên. Trâu là sự nghiệp nhà nông:
Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà
Trong ba việc đó lưạ là khó thay!
Đây là ba công việc chính cuả kẻ nào muốn giàu có qua nghề nông. Người ta đưa việc có con trâu trong nhà cũng bằng với việc có vợ hay có được cái nhà để ở. Mấy câu sau đây nói lên được sức trâu cần thiết cho nông gia thời chưa có máy cày bưà : “làm ruộng mạnh có trâu- làm dâu mạnh có chồng” Nhưng tại sao lại “muốn làm giàu thì nên nuôi trâu cái”? Vì chị trâu cái sẽ đẻ ra trâu con, trâu cháu…vốn liếng sẽ tăng lên trong quá trình chăm sóc ruộng đồng và đàn trâu sinh nở!...
Hình ảnh chú trâu trong dân gian rất đậm nét và lúc nào cũng gần gũi với cuộc sống nông thôn. Trong “Lục Súc Tranh Công” người ta đã làm nổi bật tính nhẫn nại, cần cù của trâu:
Lóng canh gà vưà mới gáy tan
Chủ đã gọi thằng chăn vội vả
Dạy rằng đuổi trâu ra thảo dã
Cho nó ăn ba miếng đở lòng
Chưa bao lâu thoát đã rạng đông
Vưà đến buổi cày bưà bua việc
Trước cổ đã mang hai cái niệt
Sau đuôi thêm kéo một cái cày
Miệng đã dàm, mũi lại dòng dây
Trên lưng ruồi bu dưới chân đỉa cắn
Trâu mệt đà thở dài thở vắn
Người còn hầm hét, mắng ngược mắng xuôi….
Qua những vần thơ nầy, chúng ta thấy kiếp trâu phục vụ con người với mọi tình huống từ trong gian khổ đến khi chủ của nó giàu có…thì nó vẫn là kiếp trâu, ăn cỏ khô uống nước đục ao tù; quanh năm nằm lăn dưới bùn thở phì nhẫn nại. Thế cho nên mới có câu “Mài sừng cho lắm cũng là trâu”
X
Sách vở nói về Trâu đầy cả, hơn nữa, năm Kỷ Sửu nầy mấy ông nhà văn nhà báo sáng tác, sưu tầm, kết hợp không biết bao nhiêu là truyện, văn, thơ, hài, ca dao tục ngữ nói về anh chàng Trâu, bạn của con người. Thôi thì để góp vào cái việc làm giàu cho kho văn học Việt, tôi xin kể một câu chuyện liên quan đến anh bạn Trâu cuả chúng ta, khi tôi còn ngồi tù miền Bắc Xã Hội Chũ Nghiã. Đó là năm một nghìn chín trăm bảy mươi tám, muà đông miền Bắc Việt Nam lạnh xé da. Đối với bọn tù chúng tôi, ăn mặc không được đầy đủ nên lúc nào cũng nghe trong xương sống mình từng luồng khí lạnh làm thân thể cứ như rung lên, co rúm. Điếu thuốc lào đối với thời gian nầy thật là quí giá vì nó có thể cưú chúng tôi ra khỏi cái cảm giác lạnh lùng rét buốt.
Trong trại tù có ba con trâu già, không biết chúng hiện diện nơi đây từ lúc nào. Khi chúng tôi “tiếp thu” từ những tù hình sự thì ba con trâu cũng đã già và gầy mòn như những thân hình tù! Đúng là trâu cuả tù, có nghiã là tù cuả tù. Ba con Trâu có ba cái tên thật độc đáo. Không biết ai đã đặt tên cho chúng. Đó là con Kennedy, con Nixon và con Johnson. Ba con trâu này được chúng tôi xử dụng trong việc cày bưà các ruộng trồng rau cho trại tù. Việc điều khiển chúng cũng chẳng khó khăn lắm vì chỉ khác nhau những khẩu lệnh. Thay vì trong Nam mình bảo trâu qua phải hay quẹo trái thì hét lên : “Thá hay dí” đứng lại thì hô “họ”. Miền Bắc quẹo trái hay phải thì hô “vắt, dật…”. Con Kennedy hay trở chứng khi nó đói. Mà đã gọi là tù cuả tù thì làm gì no được! Buổi sáng chúng tôi đến chuồng xõ giây vào dàm trâu, dắt nó ra, máng cái cày vào, bắt đầu quất roi bắt nó cày. Đến kẻng nghĩ trưa cột nó lại một chổ rồi sắp hàng theo đội về trại. Chiều ra lại bắt nó cày tiếp. Hết giờ, tù cũng “tranh thủ” chạy đi tắm ngoài suối…Chung cuộc con Kennedy chỉ đói và đói. Nó được trả về chưồng đầy phân lội đến mắt cá chân. Hai con Nixon va Johnson cũng cùng số phận.
Có thể trong thời gian chiến tranh, Hoa Kỳ thả bom Bắc Việt, mấy anh chàng học đòi căm thù tận xương tủy giặc Mỹ xâm lược nên đặt tên ba vị Tổng Thống nước Cờ Hoa cho ba con trâu để đánh đập chửi mắng… Nhưng chúng đâu có biết gì. Số kiếp tù cuả tù kéo dài đến tháng mươì hai giá rét năm một nghìn chin trăm bảy mươi tám. Vừa đói triền miên vừa bị cơn rét kéo dài, con Johnson không chiụ nổi đành phải qui tiên. Còn lại Nixon và Kennedy buồn xo đứng trong chuồng đầy phân giá rét ngó bạn mình nằm xuống!
Cái tin con Johnson chết được loan truyền rất nhanh trong trại. Không một anh tù nào mà không “hồ hởi phấn khởi” vì biết chắc rằng thịt Johnson sẽ được chia mỗi người ít lắm là một cục bằng ngón tay và một ít nứơc dùng. “Lâu quá mới được chất” đây là câu nói cuả thằng Bính, nó vừa rít thuốc lào vưà tuyên bố. “Prô tê in đấy quí vị ạ! Bố khỉ,” Con Johnson đáng thương được xẽ thịt và chặt ra hầm trên chảo. Buổi chiều chúng tôi đi lao động về được chia mổi đứa đúng một cục thịt to bằng ngón chân cái và nửa chén nước dùng. Có lẽ con trâu tù cuả tù nầy đã “phấn đấu” bao nhiêu năm nay để “phục vụ” cho tù, khi chết, nó vẫn có công làm thực phẩm bổ dưởng cho tù; thịt cuả nó dai không chê vào đâu được. Sau khi chia phần thức ăn theo kiểu bốc thăm quay số, tôi ngồi ăn chung với anh Lộc Thầy Bói. Cục thịt trâu tương đối to hơn cuống họng cuả tôi một chút. Thịt dai quá nhai hoài không còn gì, nuốt hết nước bổ trong cục thịt, nhưng không thể nào xé nhỏ ra hay nuốt trôi. Tôi cằn nhằn nhã ra phân bua:” thịt gì mà dai qúa không nuốt được đành bỏ thôi, tiếc quá!” Vừa nói tôi vừa bỏ miếng thịt trong miệng ra thì anh Lộc chụp lại. Một cử chỉ thật nhanh, anh cho ngay vào miệng nhai. Nhưng cũng như tôi, anh ráng nuốt mà vẫn không tài nào nuốt trôi. Cuối cùng anh cũng cố gắng cho nó yên bề xuống dạ dày mà mắt trợn ngược. Tôi tưởng anh bị nghẹt thở, nhưng rồi cũng qua !... Ôi một kỷ niệm về trâu lắm ưu phiền! Anh Lộc Thầy Bói nay đã ra người thiên cổ sau khi dẫn vợ con qua xứ Hoa Kỳ. Xin tưởng niệm đến anh về một giai đoạn chúng mình đói khát có nhau!
Năm Kỷ Sửu lại về, đã qua cơn bỉ cực; khi ra khỏi trại tù, có ai biết mình được diễm phúc trời ban; là gia đình được định cư trên đất nước tự do Hoa Kỳ nầy! Hồi còn ở Việt Nam, con cái không có cơ hội tiến thân, gia đình túng bấn, không có việc làm, bị trù dập. Hình ảnh con trâu cũng có thể là hình ảnh những tù nhân chính trị trong các trại tập trung sau 1975.
Vì thế, tôi ra câu đối nhân dịp năm trâu về, gởi đi trên internet và được bà con hưởng ứng đối lại xem cũng vui. Sau đây là câu đối tết:
Vế xuất: “ Nằm nhai cỏ, mài sừng dũa móng, nhớ những ngày đồng cạn đồng sâu!” Ý câu nầy là anh chàng trâu về già nằm nhớ lại công việc cày bưà đồng cạn đồng sâu thuở trước. Nhưng cũng là ý noí đến người lính VNCH một thời vào sanh ra tử, hy sinh mạng sống bảo vệ tổ quốc…Nhưng cơ trời không theo lòng người nên bây giờ nằm gặm nhấm đau thương; cũng có lúc mài sừng dũa móng, thề có ngày giải phóng quê hương. Nhưng lực bất tòng tâm đành phải nuốt hận nằm gặm nhấm, nhớ những ngày xưa thân ái!
Có mấy câu đối gởi từ các email: Xin cảm ơn các quí vị đã hưởng ứng câu đối Tết Kỷ Sửu:
Vế đối 1 : “Sục tìm mồi, giỏng mắt giương tai, thương bao lúc hủ chìm hủ nổi (Vntvnd)
Vế đối 2 : “Đứng kéo cày, chống gối chùng vai, trông từng bửa cỏ tươi cỏ héo ( Nắng Xuân)
Vế đối 3 : “chạy kiếm cơm, nát gót bong gân,thèm bao bửa chén ngon chén ngọt (LTĐQB)
Mùa xuân đã về, nắng xuân chan hòa và tiếng hát vui mừng xuân mới. Tuy người ta vẫn lo lắng cho nền kinh tế toàn cầu đi vào suy thoái, nhưng nghĩ cho cùng dầu có sống thiếu thốn, nhưng được tự do là thoả mãn lắm rồi.
Để kết luận, tôi xin mượn mấy câu thơ cuả các bạn gìa gởi đến:
Xuân bất tái lai:
Đất đã nẫy trăm phường đạo tặc
Trời lại hành một trận thiên tai
Chuột dẫu rút, lưu manh còn đó
Trâu đang về vẫn… ách trên vai
Than rằng:Xuân bất tái lai
Một bài thơ đối lại cũng độc đáo:
Xuân tất đáo lai
Dù có bần cùng sinh đạo tặc
Vẫn mong sớm thoát cảnh dân tai
Chuột lùi chắc sẽ sa vô bẩy
Trâu tới hẳn không… ách máng vai
Mừng rằng: Xuân Tất đáo lai
Bonus
Xuân tiêu bất tận lẽ nào sai!
Tác giả LTĐQB
Xuân 2009 -Kỷ Sữu
letamanh
No comments:
Post a Comment