Wednesday, December 1, 2010

Mao Trạch Đông - Ngàn năm công tội (17)


14-06-2010 12:00:39 (GMT+1)

Ảnh: Internet


Cuốn sách MAO TRẠCH ĐÔNG NGÀN NĂM CÔNG TỘI (Thiên Thu Công Tội Mao Trạch Đông) của tác giả Tân Tử Lăng

(Xin Ziling). Đây là bản dịch do Thông tấn xã Việt Nam phát hành năm 2009. Vietinfo sưu tầm và đăng tải để bạn đọc tham khảo, đồng thời cũng có thêm cái nhìn về vị lãnh tụ "vĩ đại" một thời ....


Chương 24
Giương ngọn cờ chống đảo chính để làm đảo chính 



Tháng 4-1966, Mao yêu cầu họp Bộ Chính trị mở rộng để giải quyết vấn đề Bành Chân, Lục Định Nhất, La Thuỵ Khanh, Dương Thượng Côn, những người tham dự đều có quyền biểu quyết. Mao muốn đưa các nhân vật cánh “tả” Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Lực, Quan Phong, Thạch Bản Vũ đến hội nghị đế thị uy. Lưu Thiếu Kỳ nhấn mạnh biến động nhân sự quan trọng trong Đảng phải được Hội nghị toàn thể Ban chấp hành trung ương thông qua. Họp Ban chấp hành trung ương, chưa chắc Mao được đa số ủng hộ.
Mao nhận ra điều này, nên kiên quyết không họp Trung ương, không cho những người phụ trách các Trung ương cục, các tỉnh và thành phố trực thuộc đến dự, Mao nắm chặt quân đội, quyết tâm dùng “súng chỉ huy đảng” khi cần thiết để cứu vãn tình thế. Nắm quân đội chủ yếu là lôi kéo Lâm Bưu, thiết lập liên minh Mao-Lâm, để áp đảo Thường vụ Bộ Chính trị, Bộ Chính trị và Ban chấp hành trung ương. Nhưng Mao cũng đề phòng Lâm Bưu, nên không sử dụng bộ đội thân tín của Lâm. Nước cờ then chốt nhất là Mao nắm Quyền Tổng tham mưu trưởng Dương Thành Vũ. Trong những năm tháng chiến tranh, Lâm và Dương từng có bất đồng. Quân đoàn 63 và Quân đoán 65 là bộ đội Hoa Bắc mà Dương từng chỉ huy. Dương bị cuốn hút bởi niềm hy vọng thay thế toàn diện La Thuỵ Khanh, đứng vào hàng ngũ những người lãnh đạo quan trọng của Đảng, Chính phủ và Quân đội, lúc đó ông ta tuyệt đối trung thành với Mao. Ngày 22-2-1966, Mao chỉ thị cho Diệp Kiếm Anh và Dương Thành Vũ sáp nhập Cảnh sát vũ trang vào Quân đội bởi La Thuỵ Khanh từng nhiều năm làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ lực lượng này. Ngày 15-5, Mao quyết định thành lập Tổ công tác Thủ đô, gồm Tổ trưởng Diệp Kiếm Anh. Hai Tổ phó Dương Thành Vũ, Tạ Phú Trị và 8 thành viên khác, trong đó Dương Thành Vũ giữ vai trò quyết định. Dương giới thiệu Đinh Lai Phu và Vương Thọ Nhân, Chính uỷ và Tham mưu trưởng Quân đoàn 63, làm Bí thư thứ nhất Đảng uỷ và Phó Cục trưởng Cục phát thanh, kiến nghị đưa hai sư đoàn thuộc các Quân đoàn 63 và 65 từ Thạch Gia Trang và Trương Gia Khẩu vào Bắc Kinh làm nhiệm vụ cảnh vệ, đều được Mao phê chuẩn. Dựa vào ưu thể vũ lực, Mao đã áp đảo đa số trong Thường vụ Bộ Chính trị, đánh bại ý đồ triệu tập Hội nghị Trung ương của Lưu Thiếu Kỳ:
Ngày 4-5-1966, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng họp tại Bắc Kinh, các thành viên Tổ Cách mạng văn hoá trung ương đều tham gia. Mao chỉ định hội nghị do Lưu Thiếu Kỳ chủ trì, nhưng lại do Khang Sinh giữ vai trò liên lạc với Mao để chì đạo như vậy Lưu chỉ còn là người giới thiệu chương trình. Hai ngày đầu, Khang Sinh truyền đạt những ý kiến của Mao từ tháng 9-1962 tới tháng 3-1966, chủ yếu là phê phán Bành Chân, Lục Định Nhất, giao nhiệm vụ ủng hộ phái tả, tiến hành Đại cách mạng văn hoá. Xuyên suốt nội dung truyền đạt là Trung ương đã xuất hiện chủ nghĩa xét lại, như Bành Chân, La Thuỵ Khanh, Dương Hiến Trân, Dương Thượng Côn, Điền Gia Anh. “Thông tri của Ban chấp hành trung ương ĐCSTQ” mà hội nghị này cần thông qua nhấn mạnh phải triệt để phê phán tư tưởng tư sản phản động trong giới học thuật, giáo dục, báo chí, văn nghệ, xuất bản, giành lại quyền lãnh đạo trong lĩnh vực văn hoá, đồng thời phê phán các đại diện của giai cấp tư sản len lỏi trong đảng, chính phủ, quân đội và lĩnh vực văn hoá, trong đó có kẻ đã được bồi dưỡng thành người thừa kế kiểu Khrusev… Trong phát biểu ngày 18-5-1966, Lâm Bưu điểm lại các cuộc đảo chính từ thời thượng cổ đến nay, và nói Mao đã nhiều lần cùng người phụ trách hữu quan bàn việc đề phòng đảo chính quân sự. Lâm nói La Thuỵ Khanh nắm quân đội, Bành Chân nắm rất nhiều thứ, Lục Định Nhất nắm văn hoá, tư tưởng, Dương Thượng Côn nắm cơ yếu, tình báo, liên lạc, họ liên minh với nhau, có thể làm đảo chính trên chiến trường cũng như trong phòng họp, do đó về tư tưởng không thể tê liệt, trong hành động phải có biện pháp cụ thể. Lâm đề cao Mao Trạch Đông, coi Mao là “thiên tài vĩ đại nhất của giai cấp vô sản”, vượt trên Mác, Ăng-ghen, Lênin, Stalin.
Xin nhắc lại một sự kiện liên quan đến nội dung phát biểu trên của Lâm Bưu là “vụ Watergate” kiểu Trung Quốc diễn ra đầu thấp kỷ 60. Tháng 2-1961, Mao tuần du phương Nam, chuyên xa dừng tại ga Trường Sa. Trong lúc Mao gặp Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ Hồ Nam Trương Bình Hoá, các nhân viên đi dạo trên sân ga, một nhân viên vô tuyến điện hứng lên, nói với cô gái xinh đẹp phục vụ Mao:
- Anh đã nghe thấy tiếng em trong buồng ngủ Mao Chủ tịch.
Cô gái tái mặt, vào báo cáo:
- Có người đặt máy nghe trộm trong buồng ngủ!
Mao bảo Trương Bình Hoá về, rồi gọi ngay La Thuỵ Khanh và Dương Thượng Côn có mặt trong chuyến đi này đến hỏi:
- Ai bảo các ông đặt máy nghe trên xe lứa?
La, Dương nhìn nhau, đành nói thật:
- Từ Đại tiến vọt đến nay, Chủ tịch thường tiếp một số đồng chí trên xe lửa, phát triển nhiều ý kiến, thư ký ghi chép không đầy đủ, bỏ sót nhiều chỉ thị quan trọng. Để bám sát tư tưởng của Chủ tịch, Ban Bí thư quyết định đặt máy nghe trên xe lửa…
Khả năng tự kiềm chế của Mao thật ghê gớm. Biết rõ đây là lúc quyền thống trị của mình suy yếu nhất, không thể làm căng, nhưng phải hiểu rõ tình hình, Mao bình thản nói:
- Các ông cũng tốn nhiều công sức, tôi không trách. Thiết bị có phải do Anh Cả cung cấp không?
Dương Thượng Côn đáp:
- Thưa, lấy danh nghĩa Văn phòng Trung ương, thông qua con đường hữu quan, nhập từ nước ngoài.
Mao nói:
- Thế thì tiên tiến lắm. Lắp đặt từ bao giờ vậy?
- Dạ, từ tháng 1-1959 ạ.
Mao lại giật thót mình, nhưng giọng vẫn ôn hoà:
- Ồ, đã hơn hai năm rồi dấy. Các ông giữ bí mật khá lắm. Số nhân viên công tác của tôi có biết không?
La Thuỵ Khanh:
- Các thư ký đều biết, nhưng yêu cầu họ giữ kín.
Mao cười lớn:
- Mọi người đấu biết, thì còn bí mật gì nữa, cũng không phải là một âm mưu. - Rồi Mao hờ hững hỏi - Vậy là các đồng chí Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình đều biết trước việc này?
Dương Thượng Côn:
- Hai đồng chí ấy tán thành. Ban bí thư có một nghị quyết nội bộ về vấn đề trên.
- Còn Chu Ân Lai, Uông Đông Hưng?
Dương Thượng Côn:
- Thủ tướng biết, còn chỉ thị: đã xuất phát từ lợi ích toàn đảng, thì phải làm sao để không có chuyện hiểu lầm. Đồng chí Uông Đông Hưng bảo lưu, nhưng qua Ban bí thư giải thích, đồng chí ấy phục tùng nghị quyết của Trung ương.
Mao cười:
- Chu vẫn suy nghĩ chu toàn. Giờ tôi không hiểu lầm nữa, những nghi ngờ cũ xoá sạch rồi, được không?
Cuộc nói chuyện kết thúc. Dương Thượng Côn lạnh toát mồ hôi, vội gọi điện thoại cho Lưu Thiếu Kỳ. Lưu bay ngay xuống Quảng Châu, đón gặp Mao tại đó. Ông trình Mao nghị quyết của Ban Bí thư tháng 12-1958 về việc đặt máy ghi âm tại buồng ngủ của Mao trên xe lửa, và giải thích việc này chỉ nhằm bám sát, học tập chỉ thị của Mao, không có ý gì khác.
Lưu đề nghị trao cho Uông Đông Hưng kiểm tra, tiêu huỷ toàn bộ số băng ghi âm cùng các bản chỉnh lý lưu trữ tại phòng bảo mật Văn phòng Trung ương. Lưu nói tuy đây là chủ kiến của Ban Bí thư, nhưng Lưu đã tán thành cho làm, nên ông xin lỗi Mao, và sẵn sàng chịu kỷ luật. Mao giấu kín những suy nghĩ riêng, làm bộ tươi cười:
- Các ông rõ là tốt bụng mà làm một việc không hay lắm. Sự việc đã nói rõ, coi như kết thúc. Ông yên tâm đi, việc này làm theo ý ông. Từ nay trong Đảng không ai được nhắc lại, tôi cũng không đề nghị Trung ương thi hành kỷ luật bất cứ ai. Việc quan trọng nhất hiện nay là toàn Đảng đoàn kết, một lòng một dạ, ổn định lòng đảng, lòng quân, cùng nhau vượt qua khó khăn…
Từ đó, Mao không tin cậy Lưu Thiếu Kỳ và Ban Bí thư nữa, nó là bước ngoặt khiến quan hệ Mao-Lưu trở nên thù địch.
Thông tri của Trung ương ĐCSTQ ngày 16 và phát biểu của Lâm Bưu ngày 18-5-1966 đã đặt cơ sở cho Đại cách mạng văn hoá với mục tiêu đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ. Bỏ qua hiến pháp và Quốc hội, dùng phong trào quần chúng được quân đội ủng hộ để phế truất nguyên thủ quốc gia, bản thân nó là một cuộc đảo chính. Mao và Lâm đã trương lá cờ chống đảo chính để làm đảo chính.
Phát biểu của Lâm Bưu như một quả bom nguyên tử chính trị, tăng cường quyền uy của Mao tới mức tối đa, đẩy Mao lên vị trí chí tôn, giúp Mao hoàn toàn thoát khỏi tình thế lúng túng, bị động từ Đại hội 7.000 người. Không còn ai dám nghĩ đến việc truy cứu trách nhiệm làm mấy chục triệu người chết đói. Trong tiềm thức, đông đảo cán bộ, đảng viên, quần chúng cảm thấy chỉ có tín ngưỡng vô hạn, sùng bái vô hạn Mao Trạch Đông, thì mới có an toàn chính trị cho bản thân và gia đình. Một cao trào sùng bái cá nhân mang tính chất toàn dân vừa bị ép buộc, vừa tự nguyện, như một dòng thác lũ tràn ngập nước Trung Hoa.
Mao rất hài lòng về bài nói của Lâm. Song ngày 8-7-1966, Mao lại viết thư cho Giang Thanh phàn nàn việc Lâm chỉ nói về đảo chính, Mao cũng tỏ ra lo ngại trước một số cách nêu vấn đề của Lâm, nhưng đành chấp nhận, và đây là lần đầu tiên trong đời, Mao phái tán thành ý kiến tâng bốc của người khác, trái với lòng mình. Là người giỏi ứng biến, đương nhiên Mao biết Lâm tâng bốc ông ta như vậy nhằm đổi lấy vị trí người kế tục đổi lấy “giang sơn xã tắc” của Mao. Sự tâng bốc này có hiệu quả nếu dùng làm một sách lược, một thủ đoạn để tấn công Lưu Thiếu Kỳ, nhưng để đánh giá một nhân vật lịch sử thì không thể lâu dài. Mao còn cho Chu Ân Lai xem thư trên nhằm cho thấy giữa Mao và Lâm có khoảng cách, Thủ tướng đừng quá gần gụi Lâm. Chu Ân Lai hiểu ngay rằng: vào lúc Mao “chúng phản, thân ly” chỉ còn mỗi Lâm Bưu là “bạn chiến đấu thân thiết”, lại có một chiến hữu “thân thiết“ hơn Lâm, là Giang Thanh. Chu một mặt lẳng lặng giữ khoảng cách thích đáng với Lâm Bưu, mặt khác, bằng mọi cách giữ quan hệ bình thường với Giang Thanh, tuyệt đối không va chạm, nhưng cũng quyết không cho phép mụ trở thành Lã Hậu. kiên quyết ngăn chặn mưu toan của Mao truyền ngôi cho người nhà. Đó là nguồn gốc của cục diện chính trị rối ren phức tạp, kỳ quặc xuất hiện trong cuộc đấu tranh nội bộ ĐCSTQ những năm cuối đời Mao.
Ngày 4-10-1966, trong buồng ngủ cách âm của vợ chồng Lâm Bưu, Giang Thanh đột nhiên hỏi Diệp Quần: “Cô nói xem, Đại cách mạng văn hoá là gì?” Diệp Quần sững người, chưa biết trả lời ra sao, Giang Thanh nghiến răng nói tiếp: “… là đánh đổ hết kẻ thù của ta!” Hai người thoả thuận: Giang Thanh giúp trừng trị những kẻ thù của Diệp Quần, đổi lại, Diệp Quần giúp đánh đổ những kẻ thù của Giang Thanh. Hành động của hai người đàn bà trong những năm tháng tiếp theo là sự chú giải tuyệt vời cho lý luận của hai người chồng họ.

Chương 25
Lợi dụng học sinh lật đổ chủ tịch nước

Khi cảm thấy đã chắc chắn thao túng được Ban chấp hành trung ương, Mao ra lệnh triệu tập Hội nghị Trung ương 11 khoá 8 từ 1 đến 12-8-1966. Trước cuộc họp, Mao gọi Chu Ân Lai, Đào Chú, Trần Bá Đạt, Khang Sinh đến hỏi ý kiến về người thay thế Lưu Thiếu Kỳ. Mao và 4 người viết lên người đó lên bàn tay mình, khi mở ra, tất cả đều một chữ “Lâm”.
Dự Hội nghị có 141 uỷ viên và uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng. Những người phụ trách các Trung ương cục, các tỉnh và thành phố trực thuộc, các cơ quan trung ương và các thành viên Tổ Cách mạng văn hoá trung ương được mời dự thính. Chương trình Hội nghị gồm thông qua quyết định phát động Đại cách mạng văn hoá, thảo luận và phê chuẩn các biện pháp lớn về các vấn đề trong nước và quốc tế từ kỳ họp trước đến nay, thông qua thông cáo của hội nghị này, truy nhận quyết định thay đổi nhân sự của Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng.
Đọc báo cáo công tác, Lưu Thiếu Kỳ chủ động nhận trách nhiệm về vấn đề cử các tổ công tác vào các trường đại học và học viện, Mao liên tục cắt ngang với lời lẽ gay gắt.
Sau khi châm ngòi lửa Đại cách mạng văn hoá, Mao bỏ xuống Hàng Châu nghỉ ngơi, mặc cho Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình chủ trì công tác trung ương, đối phó tình trạng rối loạn ở Bắc Kinh và cả nước, đây là một âm mưu lớn, một cái bẫy lớn, Lưu-Đặng làm thế nào cũng sai, cũng bị Mao nắm thóp. Kết quả là Lưu-Đặng đứng ra lo liệu, đưa các tổ công tác vào các trường đại học, Mao liền nói họ đàn áp quần chúng cách mạng, thực hiện khủng bố trắng, đẩy lùi Đại cách mạng văn hoá, thực hiện đường lối tư sản phản động, buộc họ kiểm thảo mắc sai lầm đường lối. Nếu Lưu-Đặng không đứng ra lo liệu, đề mặc cho tình hình rối loạn. Mao sẽ nói đây là cuộc bạo loạn phản cách mạng, Trung Quốc xuất hiện “sự kiện Hungary” do Lưu-Đặng đứng đằng sau. Khi ấy, Mao sẽ hy sinh mấy chục vạn học sinh, đứng ra bảo vệ những người bị hại, một lần nữa trở thành “đại cứu tinh của nhân dân”.
Mao nắm quyền phát ngôn, tiếng nói có sức nặng ghê gớm, đó lâ chỗ lợi hại của kẻ độc tài. Nhưng Mao đã dự đoán Lưu-Đặng sẽ không bỏ mặc cho tình hình rối loạn không kiểm soát nổi, thông qua cuộc đấu tranh chống phái hữu, các bộ, các cấp mặc choé tình hình hỗn loạn. Mao ung dung ngồi xem họ mắc sai lầm đường lối tư sản phản động.
Khi Diệp Kiếm Anh xen vào “Chúng ta có quân đội, không sợ yêu ma quỷ quái”. Mao nói như quát lên: “Yêu ma quỉ quái đang có mặt tại đây”. Chiều 5-8, trên cương vị Chủ tịch nước, Lưu Thiếu Kỳ tiếp Đoàn đại biểu Zambia, về đến nhà liền nhận được điện thoại của Chu Ân Lai yêu cầu ông không xuất hiện công khai, không tiếp khách nước ngoài. Lưu hiểu đây là lệnh của Mao.
Chuẩn bị xong xuôi, tại cuộc họp Thường vụ Bộ Chính trị, Mao tuyên bố muốn thay người kế tục, và giới thiệu Lâm Bưu. Lưu Thiếu Kỳ đã sớm nhìn ra nước cờ này, ông lên tiếng tán thành ngay. Các uỷ viên Thường vụ khác cũng bỏ phiếu tán thành. Ngày 8-8, Hội nghị Trung ương thông qua quyết định về Đại cách mạng văn hoa, rồi chuyển sang phê phán Lưu, Đặng. Hội nghị bổ sung Đào Chú, Trần Bá Đạt, Khang Sinh, Từ Hướng Tiền, Nhiếp Vinh Trăn, Diệp Kiếm Anh làm uỷ viên chính thức, Lý Tuyết Phong, Tống Nhiệm Cùng, Tạ Phú Trị làm uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị, Tạ Phú Trị, Lưu Ninh Nhất vào Ban Bí thư, Đào Chú làm Bí thư trực, đưa Bành Chân, La Thuỵ Khanh, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn ra khỏi Ban bí thư.
Mao Trạch Đông chuẩn bị một danh sách Thường vụ Bộ chính trị 11 người, gồm Mao, Lâm, Chu, Đặng, Trần Bá Đạt, Khang Sinh, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Trần Vân, Lý Phú Xuân, Đào Chú. Do được 100% số phiếu, Đặng được xếp ở vị trí thứ 4. Sau đó, theo ý Giang Thanh, Mao đưa Đào Chú lên vị trí thứ 4, đẩy Đặng Tiểu Bình xuống vị trí thứ 7, Trần Vân xuống vị trí cuối cùng. Mao muốn cử hai Phó Chủ tịch Đảng là Lâm Bưu và Chu Ân Lai. Song Chu đề xuất chỉ có một Phó Chủ tịch là Lâm Bưu, để nêu bật vị trí người kế tục. Chu chủ động lùi một bước, vừa tránh được sự đố kỵ của Mao, Lâm, vừa được lòng người.
Qua việc Giang Thanh tham gia cải tổ Thường vụ Bộ Chính trị có thể thấy Đại cách mạng văn hoá vừa bắt đầu, Mao đã coi Giang Thanh là người kế tục để bồi dưỡng. Sau khi Đặng Tiểu Bình bị đánh đổ, Ban Bí thư tê liệt, Mao đã lấy Tổ cách mạng văn hoá trung ương thay thế Ban Bí thư, vị trí và vai trò thực tế của Giang Thanh trong Đại cách mạng văn hoá tương đương Tổng Bí thư.
Sau Hội nghị Trung ương 11 khoá 8, từ Bắc Kinh đến cả nước, đông đảo cán bộ và quần chúng tỏ ra không sao hiếu nổi việc Mao Trạch Đông phát động Đại cách mạng văn hoá và phê phán đường lối tư sản phản động của Lưu Thiếu Kỳ, xuất hiện tình trạng “HAI ĐẦU NÓNG, GIỮA LẠNH” (đầu trên là Mao và Tổ Cách mạng văn hoá trung ương, đầu dưới là các “tiểu tướng Hồng vệ binh” bị lừa dối, lợi dụng thì sôi sùng sục, còn ở giữa - các cơ quan đảng và chính quyền các cấp đông đảo cán bộ, quần chúng - thì phát mà không động, một trạng thái chống đối Lưu Thiếu Kỳ được đông đảo cán bộ, quần chúng ủng hộ như vậy khiến Mao rất lo. Thế là ngày 1-10 Mao kêu gọi “triệt để phê phán đường lối tư sản phản động”, tổ chức lực lượng mở cuộc tổng công kích vào “Bộ tư lệnh tư sản” Lưu-Đặng. Mao kết hợp cuộc tiếp kiến Hồng vệ binh lần thứ 4 với lễ mừng Quốc khánh thứ 17, nên có tới 1,5 triệu Hồng vệ binh tham gia hoạt động này. Một nhóm Hồng vệ binh nhận nhiệm vụ bí mật căng trên quảng trường Thiên An Môn khẩu hiệu lớn “Đả đảo Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình!” Họ công khai hô khẩu hiệu đánh đổ Lưu, Đặng, công khai tuyên bố trước toàn thế giới mũi nhọn của Đại cách mạng văn hoá chĩa vào đầu.
Trước sức ép của phong trào Hồng vệ binh, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình buộc phải thừa nhận đã mắc sai lầm về đường lối. Theo nhịp điệu do Mao định ra, Lưu Thiếu Kỳ đã phủ định toàn bộ công tác chỉnh đốn kinh tế quốc dân, ngăn chặn nạn đói lan tràn, khiến đất nước tránh khỏi sụp đổ do ông lãnh đạo. Như vậy là Mao Trạch Đông, người phát động phong trào Đại tiến vọt, Công xã hoá làm 37,55 triệu người chết đói lại trở thành nhà lãnh đạo “luôn luôn đúng đắn”, còn Lưu Thiếu Kỳ, người đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, khiến nhân dân thoát khỏi nạn đói lại là người mắc sai lầm về đường lối, phải đánh đổ.
Phát biểu trước Hội nghị công tác Trung ương ngày 25-10, Mao Trạch Đông đổ hết mọi trách nhiệm cho Lựu Đặng. Mao nói: Trong 17 năm (từ 1949 đến 1966), Mao ở tuyến 2, “không chủ trì công tác hàng ngày”, các đồng chí ở tuyến 1 “xử lý công việc không tốt lắm” (nghĩa là đường lối chung, Đại tiến vọt, công xã nhân dân, chết đói trên 37,5 triệu người… đều do người khác làm), thiếu sót của Mao chỉ là phân chia tuyên 1 tuyến 2, và quá tin vào Lưu, Đặng.
Do Giang Thanh đạo diễn ngày 6-1-1967 đã xảy ra vụ “dùng mưu bắt Vương Quang Mỹ” đem đến Đại học Thanh Hoa phê đấu, sau nhờ Chu Ân Lai can thiệp, bà Vương được tha về. Đêm 13-1, Mao cho thư ký đón Lưu Thiếu Kỳ đến gặp tại Nhà Quốc hội. Đây là cuộc gặp cuối cùng giữa hai người. Lưu nhận trách nhiệm về “sai lầm đường lối” lần này. Ông nói đông đảo cán bộ đều tốt, yêu cầu nhanh chóng thả họ ra để Đảng bớt bị thiệt hại. Ông cũng xin từ chức Chủ tịch nước và uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị, cùng vợ con về quê làm ruộng, để sớm kết thúc Đại cách mạng văn hoá, giảm thiệt hại cho đất nước. Mao rít thuốc lá, lặng lẽ nghe, im lặng hồi lâu rồi khuyên Lưu đọc cuốn “Chủ nghĩa duy vật máy móc” của Hê-ghen. Mao còn vờ hỏi thăm tình hình con Lưu, nhắc Lưu chú ý giữ gìn sức khỏe.
Ngày 4-10, vẫn do Giang Thanh dày công đạo diễn, Hồng vệ binh Đại học Thanh Hoa tổ chức đại hội phê phán Vương Quang Mỹ, có 30 vạn người tham gia, lôi cả hơn 300 cán bộ thuộc “phái đi con đường tư bản chủ nghĩa” trong đó có Bành Chân, Bạc Nhất Ba, Lục Định Nhất, Tưởng Nam Tường ra đấu.
Từ sáng sớm, ôtô của Hồng vệ binh đã vào Trung Nam Hải bắt người. Vương Quang Mỹ bị dẫn đến tầng 7 toà nhà chính của Đại học Thanh Hoa, bị cưỡng bức mặc bộ trang phục hồi thăm Indonesia, và bị choàng lên cổ một chiếc “dây chuyền” cực lớn xâu bằng những quả bóng bàn. Màn kịch xấu xa trên đã bộc lộ hết sự hẹp hòi, đố kỵ, tâm lý đen tối và nhân cách hạ đẳng của Giang Thanh. Hôm sau, tin ảnh về “ba lần thẩm vấn Vương Quang Mỹ” xuất hiện trên các bản tin của Hồng vệ binh làm chấn động dư luận thế giới, sự tôn nghiêm của Lưu Thiếu Kỳ trên cương vị Chủ tịch Nhà nước Trung Quốc bị quét sạch trơn.
Đầu tháng 7-1967, 1,5 vạn người đại diện cho hơn 500 tổ chức tạo phản ở Bắc Kinh và hàng chục tỉnh thành khác, dựng trên 7.000 chiếc lều kéo dài hàng chục dặm từ cửa tây tới cửa bắc Trung Nam Hải, tuyên bố thành lập “Bộ chỉ huy hoả tuyến đấu Lưu Thiếu Kỳ”, 500 loa phóng thanh công suất lớn ra rả suốt ngày đêm phê phán Lưu. Mao hài lòng thấy Lưu bị bao vây trong thiên la địa võng của Hồng vệ binh. Ngày 13-7, Mao rời Bắc Kinh “tuần du phương Nam”. Chuyến tàu chở Mao vừa chuyển bánh, Giang Thanh liền thúc giục Hồng vệ binh đấu Lưu Thiếu Kỳ.
Ngày 18-7, phái tạo phản đồng thời đấu ba cặp vợ chồng Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Đào Chú tại nơi ở của họ trong Trung Nam Hải. Ngày 5-8, kỷ niệm một năm ngày Mao viết bài “Nã pháo vào bộ tư lệnh”, Tổ cách mạng văn hoá tổ chức cuộc họp một triệu người tại quảng trường Thiên An Môn, hỏi tội Lưu, Đặng. Đào, đồng thời tổ chức đấu họ tại nơi ở. Hôm ấy, Lưu Thiếu Kỳ bị đánh sưng mặt, tuột cả giày.
13-9-1967 là ngày gia đình Lưu ly tán: bà Vương Quang Mỹ bị bắt giam, ba người con ở tuổi đi học buộc phải vào trường chịu thẩm tra, bé út 6 tuổi phải theo bảo mẫu ra khỏi Trung Nam Hải. Lưu Thiếu Kỳ bị giam ngay trong Văn phòng Chủ tịch nước. Mao muốn giày vò Lưu ngay trước mắt mình, muốn thấy ông ta từng bước suy sụp về tinh thần và thể chất, từng bước đi vào chỗ chết. Lợi dụng học sinh đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ, nhưng Mao vẫn quan tâm đến hiến pháp và pháp luật. Mọi người thấy đấy: Mao không hề hạ lệnh bắt Lưu, không giam Lưu vào nhà tù, không cử người ám sát hoặc ra lệnh xử bắn Lưu; Lưu vẫn là Chủ tịch nhà nước Trung Quốc, vẫn ở trong Văn phòng Chủ tịch của ông ta; còn việc quần chúng không ủng hộ, muốn lật đổ ông ta, thì đấy là phong trào quần chúng tự phát, trách ai được. Nếu truy cứu vụ án bức hại Chủ tịch nước cho đến chết thì chẳng nắm được sơ hở nào của Mao, rất khó mà định tội. Mao không bảo Lưu phải ngừng thực thi chức quyền Chủ tịch nước, không nói phải giam Lưu, đấu Lưu, về văn tự chẳng để lại dấu vết nào. Việc quy Lưu là phản bội, nội gian, công đoàn vàng, thì với tư cách Chủ tịch Đảng, Mao không ký, mà do Chu Ân Lai thay mặt Ban chấp hành trung ương ký. Thế là Mao lẩn hết trách nhiệm. Hành động chính trị lưu manh này là sự sa đoạ về phẩm chất chính trị của Mao. Nhưng Mao không thoát khỏi sự phán xét của Toà án đạo đức.
Năm ấy Lưu đã 69 tuổi, sự bức hại đối với ông ngày càng gia tăng. Mấy lần đấu đá khiến ông tổn thương nặng nề cả về tinh thần và thể chất. Tay ông bị thương trong chiến tranh, qua mấy lần bị đánh, nay không tự do cử động được nữa, mặc một chiếc áo cũng phải mất hàng giờ. Mỗi bữa ăn, khoảng cách đến nhà ăn chỉ chừng 30 mét, mà ông phải lê đôi chân bị thương đi mất 50 phút. Người ta đã nhắc nhở lính canh không được đỡ Lưu. Về sau Lưu không đi nổi, phải mang cơm tận nơi, rồi lại một lần mang cơm cho mấy bữa, cơm thiu cũng mặc. Lưu chỉ còn 7 chiếc răng, ăn uống như vậy khiến ông thường bị tiêu chảy, lại không thể thay quần áo, trong phòng hôi thối nồng nặc. Ngày nào cũng bị đấu, quanh phòng đầy khẩu hiệu làm nhục ông, tên ông chúng viết thành Lưu Thiếu Cẩu. Ông đầy lòng căm phẫn mà không nói ra được, muốn nghỉ ngơi mà không được yên, có bệnh không được chữa chạy. dần dần tâm trí hoảng loạn, sụp đổ về tình thần.
Khi chân lý trong tay, Mao có thể bao dung các đối thủ, đoàn hết phe phản đối. Thường khi Mao đuối lý, phát hiện mình sai rồi, thì ông ta không thể bao dung phái phản đối, mà quyết tâm đẩy họ vào chỗ chết, để trừ hậu hoạ. Đó là lý do vì sao Mao tàn bạo đến tận cùng đối với những người bạn cũ như Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài…
( Còn nữa )
Tác giả: Tân Tử Lăng
Thông Tấn Xã Việt Nam dịch và in 2009
Khánh Hà s.t

No comments:

Post a Comment