Sunday, March 20, 2011

15/03 Ăn Cơm Tàu, Ở Nhà Tây, Lấy Vợ Nhật

(15-03-2011)

(ATKS) Không biết thành ngữ (*) ấy có từ khi nào, nhưng hầu như ở Việt Nam ta ai cũng biết.

Ăn cơm Tàu thì đúng rồi, vì cơm Trung Hoa vốn rất phong phú, sơn hào hải vị đủ cả, nhiều món độc đáo, nổi tiếng là cầu kỳ, thậm chí có những món “ghê rợn”… Là nước phát triển qua mấy nghìn năm với chục triều đại mà mỗi triều đại kéo dài trên dưới 300 năm, như Tống, Nguyên, Minh, Thanh, đất nước Trung Hoa rộng lớn, không những có nhiều trường phái ẩm thực dân gian phong phú(1) mà thức ăn, nước uống nơi chốn cung đình cũng có hàng trăm món “độc chiêu”, như não hầu, sâm thử, trảm mã trà(2)…

Đó là chưa nói đến các loại sơn hào hải vị quí hiếm như tay gấu, bào ngư, vi cá, yến sào, pín cọp, bò cạp… phục vụ cho khẩu vị phức tạp chốn cung đình. Tất tật, cái gì cũng có thể đưa vào miệng. Trên rừng, dưới biển, ở đâu có động vật, thực vật là có thể biến thành món ăn, nếu cần thì cho gia vị cho thơm hơn, ngọt hơn, tùy sự khéo léo của đầu bếp. Nhờ vậy con đường tơ lụa xuyên sa mạc, xuyên thảo nguyên kéo dài hàng ngàn km cũng là con đường gia vị, nơi giao thoa giữa các nền văn minh phương Tây, phương Đông và Lưỡng Hà. Nhờ vậy, những món ăn của Trung Quốc đã đi rất xa, thậm chí biến thể thành thức ăn của người phương Tây ngày nay, như các loại mì thành món Spagetti mà người Ý rất thích.

Nói vậy để thấy cụm từ “Ăn cơm Tàu…” trong thành ngữ nói trên không có gì lạ. Tất nhiên trong mối giao lưu với thế giới thì bên cạnh những món ăn Trung Hoa còn có hàng trăm món ăn của các nước khác đã du nhập vào nước ta. Sự hiện diện các các nhà hàng các nước phương Tây, Nhật Bản, Thái Lan, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mehico… ngày nay ở TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội đã chứng minh điều đó. Thế nhưng, nếu nhìn về đời sống ẩm thực của phần đông dân chúng thì thức ăn Tàu vẫn phổ biến vì được người Việt chấp nhận.

Ở nhà Tây

Từ khi tiếp xúc với người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha…, người Trung Quốc gọi người da trắng nói chung là Tây Dương, từ đó chữ “Tây” ở tiếng Việt hay tiếng Nhật cũng mang nghĩa tương tự. Cụm từ “ở nhà Tây” là để chỉ những ngôi nhà cao to, biệt thự đẹp đẽ, được hiểu là nơi ở sang trọng, bề thế, đầy đủ tiện nghi. Đặc biệt là khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta thì phàm cái gì to, cao, có thứ được nhập khẩu, thì người Việt mình gọi là “tây” như hành tây, khoai tây, gà tây… Nếu so sánh với nhà ba gian hai chái hay nhà rường ở Huế, ở miền Trung thì rõ ràng nhà ở của người Việt ngày xưa khiêm tốn hơn nhiều so với “nhà Tây”, cho nên phải chăng “ở nhà Tây” (nhà to) cũng là thể hiện mơ ước của người nghèo.

Hơn thế nữa, xem hình ảnh kiến trúc của Tây Dương qua sách vở thời đó thì rõ ràng các dinh thự, lâu đài ở các nước Châu Âu quá ư hùng vĩ, cho nên ấn tượng “nhà Tây” đã ăn sâu vào tiềm thức người Việt, như món ăn Trung Hoa, đã “ăn cơm Tàu” rồi thì phải “ở nhà Tây” mới xứng!

Lấy vợ Nhật

Với cụm từ “lấy vợ Nhật” thì có lẽ người viết không đủ tư cách để “chứng minh” mà chỉ dám “miêu tả”. Vì cơm Tàu thì đã được thưởng thức đây đó, nhà Tây thì cũng đã “đi đông đi tây” nhìn ngắm thoải mái, thậm chí đã được “ở ké” ngôi nhà đồ sộ của ông cậu ruột làm Giám đốc Sở Hỏa xa (xe lửa) khi vào học ở Sài Gòn, nhưng cái khoản “vợ Nhật” thì chỉ là “mì ngắm cháo ngó”, khảo sát từ xa, mặc dù đã có hơn 30 năm lang thang trên đất Phù Tang!

Không biết nhà văn, nhà thơ nào cho rằng lấy vợ Nhật là “nhất” hay đã chứng minh được qua thực tế, nhưng theo tôi thì có lẽ có người có địa vị trong xã hội thời trước đã nhìn thấy những cô gái Nhật mắt một mí, xúng xính trong bộ Kimono kín đáo, tóc vén cao lộ chiếc cổ trắng, đi rón rén trên đôi guốc gỗ đã tạo ấn tượng khó quên cho họ. Trong tranh Ukiyoe cổ điển(3) của Nhật Bản thì hình ảnh thiếu nữ Nhật đúng như thế, vì vậy người ta mơ ước lấy vợ Nhật chăng?

Nhưng có lẽ nguyên nhân sau mới là chính: Truyền thống “phu xướng phụ tùy” (tam tòng tứ đức) vẫn còn đậm nét trong đời sống của người phụ nữ Nhật luôn khép nép bên chồng, luôn phục vụ chồng, chăm lo “nâng khăn sửa túi” cho chồng khác hẳn với “sư tử Hà Đông” (Kakadenka)(4) ở xứ ta, cho nên nhiều đàn ông Việt ước mơ lấy được người vợ hiền thục, đoan trang như thế. Bên Trung Quốc, tương truyền rằng, hoàng đế Càn Long (1736-1795), vị vua phong lưu đa tình số một này đã cho chiêu mộ về Trung Quốc nhiều mỹ nữ khắp thế giới, trong đó người đẹp Nhật Bản được ông ta sủng ái nhất, bởi thùy mỵ và ngoan ngoãn hơn các cung tần nước ngoài khác. Tiếng lành đồn xa này cũng có thể đã lan sang nước ta, trở thành một phần của thành ngữ trên chăng?

Người chồng Nhật gọi vợ mình là “Kanai”(nội tướng), hay “Oku” (nhà sâu bên trong), hoặc “Tsuma”(thê), “Nyobo” (người nữ lo phòng trong), cho thấy vị trí khiêm tốn của người phụ nữ Nhật Bản trong gia đình. Ở xã hội phong kiến thì người phụ nữ được xem là “thứ yếu”, phụ thuộc vào đàn ông (phu xướng phụ tùy), cuộc đời của họ chỉ quanh quẩn trong một phạm vi nhỏ hẹp, không có cuộc sống xã hội và tình trạng nầy kéo dài đến thời Minh Trị Duy Tân mới được “giải phóng”. Từ đó, phụ nữ được ăn học, tham gia vào các công việc chính trị - xã hội (quyền tham chính), dần dà bình đẵng với nam giới. Cuối thế kỷ 19, Bộ Giáo dục Nhật Bản khuyến khích xây dựng hình ảnh “vợ ngoan, mẹ hiền” (Rýosai kenbo) trong gia đình, xem đó là chuẩn mực của phụ nữ để họ chuyên tâm quản lý gia đình và chăm lo con cái để người chồng yên lòng ra trận trong chiến tranh Nhật - Trung (1894-1895). Tư duy này đã ăn sâu trong xã hội Nhật tận đến ngày nay.

Từ sau 1945, khi Nhật bản thất trận trong thế chiến thứ hai, xã hội Nhật Bản hấp thụ văn minh và nếp sống Âu - Mỹ một cách nhanh chóng, thì sinh hoạt của phụ nữ đã dần dà thay đổi, họ trở nên hoạt bát, độc lập và tự tin hơn. Hình ảnh Ukiyoe ngày xưa chỉ còn trong hội họa, phim ảnh, giá trị đạo đức “xuất giá tòng phu” cực đoan không còn ảnh hưởng lên họ, vì vậy số cặp ly hôn trong xã hội Nhật ngày càng tăng, nhất là khi người phụ nữ độc lập về kinh tế, điều kiện làm việc của nữ giới được mở rộng. Theo điều tra của Đại học Ôchanomizu (Tokyo) thì tỷ lệ ly hôn năm 2000 đã lên đến 24%, tức 5 cặp thì có một cặp ly hôn, tập trung ở lứa tuổi 40-55, trong đó nhiều nhất lại là những cặp vợ chồng ở các thành phố lớn như Tokyo, Osaka… Ngày nay, số vụ ly hôn ở Nhật không hề giảm, có năm lên trên 33%. Điều đó cho thấy đời sống văn minh, hiện đại phát triển đã tạo điều kiện cho phụ nữ Nhật Bản không còn bám víu vào người chồng như xưa. Tuy vậy, ngày nay chứng kiến người vợ Nhật cung kính tiễn chồng đi làm, vẫn thấy “thế nào ấy”. Có lẽ do trước khi đi lấy chồng, các cô gái đã tham dự mấy khoá "học làm dâu” (thêu thùa, nấu ăn, cắm hoa…, gọi là Hanayome shugyo).

Như trên đã nói, hình ảnh người phụ nữ “nâng khăn sửa túi”cho chồng qua việc chăm sóc áo quần, giày dép cho chồng vẫn là tập quán của người vợ Nhật, họ xem đó là cách biểu hiện sự ấm cúng, hạnh phúc (chứ chẳng phải là sự đày đoạ miệt thị hay bất hạnh) gia đình.Vì vậy khi gặp một người lạ, người Nhật thường chú ý đến đôi giày hay áo quần có tươm tất để đánh giá gia đình người ấy có êm âm hay không, từ đó có nên bắt tay hợp tác làm ăn hay từ chối, vì theo họ, một gia đình không êm ấm thì khó có thể ổn định để làm ăn lâu dài.

Hình ảnh người phụ nữ Nhật trong mắt người Việt nói chung là rất tốt, được ca ngợi đến độ chính họ cũng ngạc nhiên khi nghe thành ngữ “… lấy vợ Nhật”. Chúng ta biết chị Nakamura Nobuko đã theo chồng, nhà nông học Lương Định Của về Việt Nam khi nước ta đang trong thời kỳ kháng Pháp khốc liệt nhất những năm đầu thập niên 50 của thế kỉ trước và đã sinh sống ở miền Bắc suốt mấy mươi năm, trong thời kỳ chống Mỹ ác liệt, trở thành phát thanh viên tiếng Nhật của Đài Tiếng nói Việt Nam. Hơn thế nữa, 1/3 du học sinh Việt Nam ở Nhật trước 1975 đã lập gia đình với người Nhật (khoảng một trăm cặp) nhưng cho đến nay chỉ có một vài căp ly hôn. Điều đó cho phép người viết kết luận là lập gia đình với phụ nữ Nhật cũng bền vững không kém.

Tôi hỏi một người bạn thân lấy vợ Nhật từ khi anh học đại học, nay đã là giáo sư và có ba người con thành đạt: “Anh lấy vợ Nhật thấy có gì trục trặc không?”, anh chỉ tay vào bà (đã hơn 60 tuổi), rằng, “Goran no toori desu” (Như anh thấy đấy!), còn bà thì “Totemo kekko deshita”(Thế là được quá rồi) với nụ cười kín đáo, khó hiểu của một Yamato Nadeshiko (kiều nữ Nhật bản vẹn toàn)(5) như nàng La Joconde của Leonard de Vinci.

(*) Một loại tục ngữ đặc biệt, tự nó chưa có ý nghĩa đầy đủ, chỉ là những cách nói đã định sẵn (set expressions) để mô tả sự vật chứ không biểu thị phán đoán hay khuyên bảo.
1) Tám nhóm chủ yếu: Sơn Đông, Tứ Xuyên, Quảng Đông, Phúc Kiến, Giang Tô, Chiết Giang, Hồ Nam, An Huy…mỗi nơi lại chia thành nhiều trường phái theo phong thổ, đặc sản, âm dương, ngũ hành, phong thuỷ, dược dụng
(2) Buổi tiệc Tết Nguyên đán Canh Tý (1874) của Từ Hy Thái Hậu kéo dài 7 ngày 7 đêm gồm 140 món, trong đó có 7 món “độc khẩu” như trảm mã trà (cỏ phương chi cho ngựa ăn rồì lấy ra phơi khô), sâm thử (chuột nuôi bằng sâm 3 đời), tượng tinh (tinh khí của voi), khổng noãn (trứng công), trư vương (heo quý), sơn dương trùng (con dòi dê núi), não hầu (óc khỉ). (Nghe nói ở Hương Khê, Hà Tĩnh nước ta ngày nay vẫn còn bán món não hầu này)
(3) Ukiyoe: Nghệ thuật vẽ tranh khắc trên gỗ phổ biến thời Edo (1600-1868) mô tả “đời sống trôi nổi”trong xã hội Nhật Bản
(4) Ở Nhật, phụ nữ vùng tỉnh Gunma được ví là “Kakadenka” (sư tử Hà Đông) vì nơi này có nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa nổi tiếng mà phụ nữ là người cai quản, làm chủ gia đình.
(5)Yamato Nadeshiko: Một loài hoa có màu hồng tía quanh cánh hoa có màu trắng, tên khoa học Dianthus Superbus. Từ này được dùng để chỉ người phụ nữ truyền thống Nhật Bản (Yamato) đầy nữ tính,tận tuỵ với chồng, hiền thục, tế nhị, liễu yếu đào tơ (như đoá hoa Nadeshiko).

Hồng Lê Thọ (Tokyo)

Món Huế Nơi Xứ Người (07-03-2011)
Đôi Nét Tìm Hiểu Về Ẩm Thực Hàn Quốc (01-03-2011)
Sao Việt Trên Núi Thơm (16-02-2011)
Quà Quê (09-02-2011)
Chùa Hương Vào Hội (26-02-2010)
Mùa Hè Đi Chơi Hội Gióng (03-11-2009)
Đền Vàng WAT PRATHAT (03-11-2009)
Tham Quan Thánh Địa Đất Tổ Cao Đài (03-11-2009)
Quyến Rủ Chùa Dơi... (03-11-2009)
Quê Hương Của Nhiều Đình Chùa, Lễ Hội (03-11-2009)
• Thảo Thơm Khói Bếp Quê Nhà (28-04-2009)
• Xin Chữ… (23-01-2008)
• Ký Ức Rau Đồng (23-01-2008)
• TRâu Ơi, Ta Bảo Trâu Này… (23-01-2008)
• Trang Phục Của Đàn Ông Xưa (23-01-2008)
• Ước Gì Ngày Nào Cũng Là Tết! (23-01-2008)
• Rau Ranh, Ốc Đá (13-08-2008)
• Thơm Ngọt Đào Mẫu Sơn (30-07-2008)
• Tháng Bảy, Thèm Cá Nục (26-07-2008)
• Vịt Quay Nghi Lương (21-07-2008)

No comments:

Post a Comment